Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Văn hóa” là khái niệm có nội hàm lớn, phong phú, phức tạp vào loại nhất trong các khái niệm khoa học. Vì vậy, ở đây tôi không có tham vọng đề cập đến tất cả các lĩnh vực của văn hóa, chỉ nói về những gì cụ thể, gần gũi với cuộc sống của chúng ta. Nhìn nhận một cách thấu đáo, chúng ta thấy được hậu quả của việc văn hóa phát triển chưa tương ứng với kinh tế và tìm ra các biện pháp để khắc phục.
Ảnh minh họa: An Thư
Trong thời kỳ đổi mới, văn hóa phát triển chưa tương ứng với kinh tế
Những gì được hiểu là văn hóa ở đây liên quan đến sự phát triển và hoạt động của các ngành khoa học xã hội, các bộ môn nghệ thuật, giải trí, cách ứng xử, nhận thức về đạo đức, lối sống của quần chúng nhân dân. Những yếu tố này có quan hệ mật thiết với nhau, tác động và hỗ trợ nhau cùng phát huy hiệu quả trong thực tế cuộc sống.
Chúng ta thấy rằng, trong 34 năm đổi mới, nền kinh tế tăng trưởng liên tục trong nhiều năm và tương đối ổn định, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện. Phát triển kinh tế được xem là thành tựu nổi bật của Việt Nam trong hơn 30 năm qua. Tổng sản phẩm trong nước năm 2019 ước đạt 266 tỷ USD; GDP bình quân đầu người đạt 2.800 USD (khoảng 63 triệu đồng), Việt Nam hiện trở thành nước có thu nhập trung bình trên thế giới. Điều quan trọng là vị thế kinh tế Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên đáng kể, các cường quốc kinh tế thường phải tính tới Việt Nam trong chiến lược phát triển của mình (với dân số gần 100 triệu người, Việt Nam là một thị trường lớn).
Sự phát triển kinh tế như vậy cho phép đại đa số người dân cải thiện mức sống của mình. Chúng ta thấy nhà lầu, cao ốc mọc lên san sát; xe hơi đời mới, sang trọng chạy chật đường (mà đường thì cũng đã được mở rộng, làm mới nhiều đáng kể); tiện nghi trong các gia đình như tivi, tủ lạnh, điều hòa, đồ gỗ phổ biến; đồ ăn, thức uống nhiều, ngon, sang trọng cũng hầu như không thiếu.
Như vậy là đời sống vật chất đã được nâng lên đáng kể trong những năm đổi mới. Tuy nhiên, đời sống văn hóa - tinh thần có được nâng lên tương ứng hay không là điều rất đáng bàn. Nhiều người cho rằng, trong hơn 30 năm qua, Đảng, Nhà nước cũng như người dân rất nỗ lực trong phát triển kinh tế nên đạt được những thành tựu rất ấn tượng. Nhưng trong lĩnh vực văn hóa lại không có sự phát triển tương ứng, không có những thành tựu có ý nghĩa to lớn. Đây là điều khiến chúng ta phải suy nghĩ.
Để xác định kinh tế phát triển, chúng ta có những con số, những công trình để nói lên điều này. Còn làm thế nào để “cân đong đo đếm” được trong lĩnh vực văn hóa để chỉ ra là phát triển hay không là vô cùng khó. Khi nói văn hóa có phát triển hay không, người ta phải dựa vào những tiêu chí trừu tượng và lập luận logic, cũng như dựa vào thực tế đời sống đang diễn ra; dựa vào thành tựu trong khoa học, nghệ thuật, thể thao; dựa vào những chỉ số trong lĩnh vực bình đẳng giới, bạo lực gia đình, tỷ lệ ly hôn, số vụ phạm pháp… Nghĩa là dù không có những đại lượng cụ thể để xác định sự phát triển của văn hóa thì chúng ta vẫn có những “công cụ” khá tin cậy để làm điều này.
Để kết luận: Văn hóa phát triển chưa tương xứng với sự phát triển của kinh tế trong thời kỳ đổi mới, chúng ta có thể dựa vào những văn kiện của Đảng và Nhà nước; đánh giá của giới quan sát và nghiên cứu; thái độ của đại bộ phận quần chúng nhân dân; thống kê, phân tích thông tin của báo chí, truyền thông (bao gồm cả mạng xã hội). Và điều quan trọng nhất, sinh động nhất và có sức thuyết phục nhất là những gì đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ trong cuộc sống buộc chúng ta mong muốn văn hóa phải phát triển tốt hơn để đời sống văn hóa - tinh thần của người Việt Nam được nâng cao hơn nữa, được đáng trân trọng hơn nữa.
Để chỉ ra sự phát triển chưa tương xứng của văn hóa, dù có khó khăn nhưng có thể làm được. Trong hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam chưa có thành tựu nào có tiếng vang trong lĩnh vực văn học, âm nhạc, điện ảnh, sân khấu, hội họa… Đọc sách là một trong những tiêu chí để đánh giá trình độ phát triển của văn hóa. Điều rõ ràng là người Việt Nam hiện nay ít đọc hơn so với trước kia và đọc ít hơn rất nhiều so với thế giới. Số liệu do Cục Xuất bản Việt Nam đưa ra trong ba năm gần đây cho thấy, bình quân mỗi năm Việt Nam xuất bản khoảng 400 triệu bản sách, trong số này có trên 300 triệu bản là sách giáo khoa, giáo trình, sách công cụ phục vụ cho nhu cầu học tập, nghiên cứu, tham khảo kiến thức cho hơn 22 triệu học sinh, sinh viên trên cả nước.
Như vậy, chỉ còn khoảng 100 triệu bản sách chia cho 96 triệu dân. Điều này đồng nghĩa với việc mỗi năm một người Việt đọc chừng 1 quyển sách. Trong khí đó người Nhật đọc khoảng 20 quyển, người Trung Quốc cũng đọc gần 5 quyển. Việt Nam hoàn toàn không có tên trong danh sách 61 nước có số lượng người đọc sách cao trên thế giới. Điều này phù hợp với một khảo sát mới đây của báo Dân Trí nhắm vào đối tượng là giới trẻ cho thấy kết quả đáng quan ngại. 98% giới trẻ cho biết họ không hề đọc quyển sách nào trong tuần qua; 80% bạn trẻ không đụng đến sách suốt một năm qua và chỉ 12% bạn trẻ trong nhóm 20-30 tuổi cho biết bản thân có đọc sách, truyện khác ngoài sách chuyên môn.
Một vị giáo sư (đã từng làm Tổng Biên tập Nhà Xuất bản Giáo dục) đổ lỗi cho ngành giáo dục thiết kế chương trình nặng quá, ra nhiều bài tập về nhà quá nên cánh học trò không có thời gian đọc sách. Vì không có thói quen đọc sách từ nhỏ nên lớn lên cũng không đọc sách. Cái hại của việc ít đọc sách rất dễ thấy: Đó là dân trí thấp; đời sống đạo đức - tình cảm thiếu sâu sắc; ứng xử thiếu tính nhân đạo, nhân văn… Chúng ta đã nhìn ra được điều này nên từ năm 2014, chúng ta đã lấy ngày 21/4 làm Ngày Hội đọc sách.
Có một số lĩnh vực có thể xem là chúng ta “gặt hái” được một số thành công. Đó là giới thiệu những giá trị văn hóa vốn đã trở thành di sản của dân tộc ta ra thế giới. Việc Dân ca quan họ Bắc Ninh, Hát xoan Phú Thọ, Nhã nhạc cung đình Huế, Ví Giặm Nghệ Tĩnh… được UNESCO ghi danh vào di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại là điều vui mừng. Thú vị hơn nữa là sau khi được UNESCO ghi danh, những làn điệu dân ca này được nhân dân quan tâm hơn, yêu thích hơn và chúng góp phần quan trọng vào việc làm giàu tâm hồn và trí tuệ người Việt.
Bên cạnh đó, một số công trình kiến trúc lịch sử của chúng ta như Cố đô Huế, Thành nhà Hồ, Hoàng thành Thăng Long cũng được công nhận là di sản văn hóa thế giới. Rồi một số danh lam, thắng cảnh của Việt Nam cũng được UNESCO xếp vào hàng di sản thiên nhiên thế giới. Đó là Vịnh Hạ Long, hệ thống hang động Phong Nha - Kẻ Bàng, Cao nguyên đá Đồng Văn, Khu danh thắng Tràng An Ninh Bình…
Những sự việc trên nói lên rằng, ở một khía cạnh nào đó về mặt văn hóa, Việt Nam đã hội nhập thành công, quảng bá rộng rãi những giá trị văn hóa của dân tộc ra thế giới. Điều này khiến người Việt Nam có thêm niềm tự hào, niềm vui trong cuộc sống. Tuy nhiên, nhiều vấn đề cơ bản thuộc lĩnh vực văn hóa chúng ta chưa phát triển tương xứng với tiềm năng của mình. Điều này cần tìm hiểu và khắc phục càng sớm, càng tốt.
Thật ra, giới quan sát và các nhà lý luận cho rằng, tuy kinh tế đạt được một số thành tựu tốt đẹp, tốc độ tăng trưởng tương đối cao nhưng nhìn tổng thể và so sánh với khu vực và thế giới, Việt Nam vẫn tỏ ra tụt hậu. Có thể nguyên nhân cũng nằm ở chỗ chúng ta phát triển chưa đồng bộ, văn hóa chưa hỗ trợ để kinh tế có thể bứt phá.
Nguyên nhân và hậu quả của việc văn hóa tụt hậu so với kinh tế
Phải khẳng định ngay là Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến phát triển văn hóa, đã đề ra những chủ trương, đường lối phát triển văn hóa toàn diện. Văn kiện các Đại hội Đảng trong hơn 30 năm qua (từ Đại hội VI 1986 đến nay) đã minh chứng cho điều này. Trong các văn kiện quan trọng này, vai trò của văn hóa luôn luôn được nhấn mạnh và làm sâu sắc thêm cho phù hợp với trình độ phát triển kinh tế. Ấy vậy mà trên thực tế, văn hóa lại tỏ ra tụt hậu khá xa so với kinh tế. So với những thành tựu trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, ngoại giao, an ninh, quốc phòng, thành tựu trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ để tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh.
Nguyên nhân chính nằm ở khâu chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện; đặc biệt là ở cấp cơ sở. Điều này thường xẩy ra khi nền kinh tế chuyển từ kế hoạch hóa chặt chẽ sang kinh tế thế thị trường; từ cơ chế quản lý quan liêu, bao cấp sang linh hoạt, tự do, mở rộng các loại hình kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Những hạn chế, yếu kém thể hiện khá rõ trong cách quản lý điều hành các hoạt động kinh tế - xã hội. Có thể thấy rõ là nhiều cán bộ quản lý, lãnh đạo chỉ quan tâm đến phát triển kinh tế, quan tâm đến lợi ích vật chất mà quên những hoạt động văn hóa, quên đi những lợi ích về mặt tinh thần.
Nhiều cấp ủy, chính quyền chưa quan tâm đầy đủ lĩnh vực này; lãnh đạo, chỉ đạo chưa thật quyết liệt. Việc cụ thể hóa, thể chế hóa Nghị quyết của Đảng còn chậm, thiếu đồng bộ, còn hời hợt và trong một số trường hợp không có tính khả thi. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa chậm được đổi mới, chưa bao quát và chưa đúng tầm; có lúc, có nơi bị xem nhẹ, thậm chí buông lỏng…Đầu tư cho lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng, chưa tập trung, còn dàn trải. Chưa nắm bắt kịp thời những vấn đề mới về văn hóa để đầu tư đúng hướng và có hiệu quả. Chưa quan tâm đúng mức công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.
Tình trạng “nhập khẩu”, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ. Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa hiệu quả chưa cao, nguy cơ mai một chưa được ngăn chặn. Hệ thống thông tin đại chúng phát triển thiếu quy hoạch khoa học, gây lãng phí nguồn lực và quản lý không theo kịp sự phát triển. Một số cơ quan truyền thông có biểu hiện thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích. Những thông tin vô bổ, thậm chí là có hại xuất hiện tràn lan trên báo chí, đặc biệt là báo điện tử.
Chúng ta thấy rằng, trong những năm gần đây, có quá ít những tác phẩm văn học, điện ảnh, hội họa, âm nhạc có giá trị nghệ thuật và giá trị tư tưởng cao được quần chúng yêu thích. Có một số tác phẩm văn chương tương đối có giá trị nhưng chúng ít được phổ biến rộng rãi nên tác động của chúng không lớn. Điều này chúng ta dễ thấy bởi vì các đầu sách hiện nay chỉ in số lượng phổ biến khoảng 1.000 cuốn, trong khi dân số của nước ta đã gần 100 triệu người. Còn những loại hình nghệ thuật như sân khấu, hội họa thì ít người quan tâm vì đây là những loại hình nghệ thuật mà tính đại chúng không cao; không phải người dân nào cũng quan tâm và hiểu hội họa, sân khấu.
Trong các bộ môn nghệ thuật thì điện ảnh và âm nhạc được xem là hai loại hình nghệ thuật quần chúng nhất vì nhiều người quan tâm, nhiều người am hiểu, nhiều người hoạt động, đặc biệt là âm nhạc. Nhưng trong âm nhạc có một xu hướng phát triển mà chúng ta cần xem lại ảnh hưởng của nó. Đó là loại nhạc được gọi là “bolero” hiện nay đang được yêu thích và phát triển một cách rất là mạnh mẽ. Theo tôi, “bolero” thực chất là “nhạc vàng” - loại nhạc trước đây chúng ta hạn chế phổ biến. Sau 1975, loại nhạc này phát triển ở trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Thời gian gần đây, loại nhạc này từ hải ngoại tràn về, từ xa xưa “sống dậy” và phổ biến rộng rãi ở nhiều nơi. Đây là loại nhạc có tiết tấu chậm rãi, nhẹ nhàng, êm dịu, dễ đi vào lòng người. Những người không thích loại nhạc này thì cho rằng, loại nhạc này sướt mướt, nỉ non khiến con người trễ nải, thiếu tích cực trong hoạt động. Thật ra, đây là vấn đề rất lớn, cần nghiên cứu cơ bản và chỉ ra tác động của nó. Điều này cần đến các nhà nghiên cứu, lý luận.
Tôi cho rằng, hoạt động lý luận nói chung, trong văn học, nghệ thuật nói riêng còn chưa theo kịp thực tiễn cuộc sống. Việc phê bình văn học, điện ảnh, hội họa, âm nhạc, sân khấu mới dừng lại ở việc giới thiệu và đánh giá sơ bộ, mà chưa phê phán những tác phẩm nghệ thuật chạy theo thị hiếu tầm thường, chất lượng thấp, thậm chí có hại. Đây là lĩnh vực cần quan tâm hơn nữa, cần phải bổ sung lực lượng và cần có cái nhìn phê phán sâu sắc hơn nữa.
Trong hàng chục năm qua, chúng ta xem nhẹ những tác động của văn hóa lên đời sống của con người nên tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong xã hội và trong Đảng đã xuất hiện và ngày càng có chiều hướng gia tăng. Chúng ta thấy điều này nhưng cho rằng nó chưa ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống hàng ngày nên chúng ta xem nhẹ. Chúng ta xem nhẹ cả đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi, đặc biệt là ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Vì thế, tình trạng đời sống văn hóa tinh thần đơn điệu, nghèo nàn, buồn tẻ diễn ra ở rất nhiều nơi. Vẫn tồn tại một khoảng cách rất lớn trong việc hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị; giữa các tầng lớp nhân dân lao động và tầng lớp trí thức, trung lưu, quan chức, công chức. Người dân ở nông thôn chỉ biết giải trí bằng cách xem tivi, rất ít khi đến nhà hát, rạp chiếu bóng.
Có một điều nữa cũng dễ thấy là môi trường văn hóa của chúng ta bị những yếu tố ngoại lai không phù hợp, thậm chí là thiếu lành mạnh tác động thường xuyên. Việc các kênh truyền hình chiếu nhiều phim, tường thuật nhiều buổi biểu diễn ca nhạc của nước ngoài khiến một bộ phận dân chúng, trong đó có lớp trẻ yêu chuộng các ngôi sao điện ảnh, ca nhạc của nước ngoài một cách thái quá, xem họ như những thần tượng. Việc hâm mộ những ngôi sao nước ngoài cuồng nhiệt một cách thái quá dẫn đến những lệch lạc trong quan niệm về tình bạn, tình yêu, về hạnh phúc gia đình và những giá trị truyền thống. Điều này dẫn tới những biểu hiện thiếu lành mạnh, trái với thuần phong mỹ tục của xã hội ta. Và trong cuộc sống xuất hiện này càng nhiều tệ nạn xã hội; tội phạm có chiều hướng gia tăng, trong đó có tệ nạn trộm cướp, xâm hại tình dục. Nhiều người cho rằng, môi trường văn hóa đã bị ô nhiễm khá trầm trọng.
Biểu hiện cao nhất, tập trung nhất, tạo ra hậu quả nặng nề nhất của việc văn hóa, đạo đức, lối sống xuống cấp là nạn tham nhũng tràn lan trong hoạt động kinh tế - xã hội của chúng ta. Điều đáng buồn, đáng lo, thậm chí nhiều người cho rằng, tham nhũng là quốc nạn, là “giặc nội xâm” trong thời điểm hiện nay. Nạn tham nhũng làm cho hoạt động kinh tế kém hiệu quả, nhiều nguồn vốn đầu tư bị chiếm dụng, bị lãng phí; nhiều công trình xây dựng mãi nhưng không thể nào hoàn thành để đưa vào hoạt động. Đặc biệt, đất đai là tài sản quý giá của quốc gia bị một số quan chức biến chất chiếm đoạt, hoặc bán rẻ cho những kẻ “cùng hội, cùng thuyền”, nghĩa là lợi ích nhóm ở đây diễn ra rất tinh vi.
Những biện pháp mạnh nhằm khôi phục giá trị văn hóa đang được thực hiện
Như vậy, chúng ta đã thấy được vai trò vô cùng to lớn của văn hóa trong đời sống hiện nay khi đất nước ta đang phát triển kinh tế mạnh mẽ và hội nhập sâu rộng với thế giới. Đây chính là lúc chúng ta ưu tiên cho sự phát triển văn hóa một cách hợp lý, bởi vì văn hóa chính là cơ sở, là nền móng bảo đảm cho sự phát triển kinh tế - xã hội lành mạnh và bền vững.
Xây dựng môi trường văn hóa phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế là yêu cầu bức xúc hiện nay. Để thực hiện điều này, phải tạo môi trường văn hóa lành mạnh trong tất cả các lĩnh vực của đời sống từ trung ương, đến địa phương; đặc biệt, phải xác lập lại những giá trị vốn có của văn hóa trong sinh hoạt chính trị của Đảng và Nhà nước ta (Điều này phải noi gương và học tập kinh nghiệm của thế hệ các chiến sĩ cách mạng lão thành).
Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể. Có thể thấy những vụ án lớn được đem ra xét xử trong thời gian gần đây, ngoài việc chống tham nhũng, thu hồi tài sản của Nhà nước bị thất thoát, còn có ý nghĩa to lớn trong việc khôi phục lại sự trong sáng, minh bạch của hệ thống chính trị của chúng ta. Chúng ta phải khẳng định rằng, những người lãnh đạo phải làm gương cho cán bộ, nhân viên về sự liêm khiết, đàng hoàng, nhiệt tình, sáng tạo trong hoạt động. Tổng hợp của tất cả những cái này chính là văn hóa lãnh đạo.
Đất nước ta hiện nay có gần 1 triệu doanh nghiệp lớn nhỏ với hàng triệu doanh nhân. Vấn đề xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân đã được đặt ra. Cốt lõi của văn hóa doanh nghiệp - doanh nhân là ý thức thượng tôn pháp luật; trung thực, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh, xây dựng thương hiệu nổi tiếng; làm giàu cho mình và làm giàu cho đất nước.
Gia đình là một thiết chế rất quan trọng đối với xã hội Việt Nam nên việc phát huy giá trị gia đình truyền thống là điều quan trọng. Gia đình phải là nơi ươm mầm văn hóa ứng xử phù hợp với đạo đức, lối sống của người Việt Nam. Trường học ở Việt Nam phải trở thành hệ thống giáo dục truyền bá kiến thức khoa học, văn hóa, đạo đức, lối sống. Ở đây phải nêu cao hai việc dạy chữ và dạy người. Sinh hoạt cộng đồng của người Việt Nam ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành văn hóa công cộng, từ văn hóa giao thông đến việc ứng xử có văn hóa với môi trường. Phải thấy việc giữ gìn vệ sinh chung và bảo vệ môi trường là đòi hỏi tất yếu đối với mỗi người dân. Ở đây, việc nâng cao chất lượng, hiệu quả phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” cần được coi trọng.
Việc tạo điều kiện cho các bộ môn nghệ thuật phát triển và đạt được những thành tựu lớn là điều quan trọng trong việc tạo ra môi trường văn hóa lành mạnh trong đời sống. Việc đội ngũ văn nghệ sĩ phải nhiệt tình, say mê trong tìm tòi, sáng tạo là điều kiện cơ bản dẫn tới thành công. Điều này ít nhiều liên quan đến đổi mới phương thức hoạt động của các hội văn học, nghệ thuật ở trung ương và địa phương. Quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống báo chí là điều cần thiết nhưng phải được thực hiện một cách cẩn trọng trên cơ sở khoa học. Phải thấy được đặc điểm lớn nhất của hoạt động truyền thông hiện nay là vai trò to lớn của Internet và mạng xã hội. Cán bộ quản lý văn hóa, báo chí trong thời đại hiện nay phải giỏi công nghệ thông tin, biết ngoại ngữ và có tầm nhìn xa rộng để không bị tụt hậu, không bị quần chúng “dắt mũi”. Họ phải đủ tri thức, bản lĩnh để định hướng tư tưởng và thẩm mỹ cho bạn đọc, nhất là cho thanh niên, thiếu niên.
Có thể nói thị trường văn hóa đã và đang hình thành; hoạt động rộng rãi, linh hoạt, và tương đối hiệu quả trên cả hai mặt: kinh tế và nghệ thuật. Nhiều đơn vị, cá nhân đã đầu tư lớn để tạo dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị, công nghệ tiên tiến để tạo ra những sản phẩm văn hóa có chất lượng cao, từ những bộ phim nhựa hoành tráng đến những đĩa ca nhạc tinh tế. Đặc biệt, những sản phẩm nghe nhìn đang được tạo ra hàng loạt và chiếm lĩnh các kênh trên YouTube. Phải thấy rằng, quản lý những kênh này là công việc hết sức phức tạp nhưng vô cùng cần thiết. Hiện tại, tôi có cảm giác công tác quản lý chưa được tiến hành bài bản, có hệ thống nên nhiều sản phẩm có nội dung vô bổ, nhảm nhí, thậm chí là phản cảm đang tràn lan trên mạng. Vì vậy, việc hoàn thiện thể chế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để xây dựng, phát triển thị trường văn hóa lành mạnh là một yêu cầu bức xúc hiện nay. Lĩnh vực này rất cần những người có tâm và có tài.
Chúng ta đang sống trong thời đại hội nhập; ngoài hội nhập về kinh tế, chính trị, ngoại giao, chúng ta phải chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa. Thông thường, hội nhập văn hóa mở ra nhiều cơ hội để tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; đồng thời cũng đối mặt với những tác động tiêu cực của một số trào lưu văn hóa, tôn giáo không phù hợp. Ở đây lại cần tới tri thức và bản lĩnh. Điều này chỉ có được trong quá trình hoạt động, học hỏi, sáng tạo. Hiện nay trào lưu “Sống tối giản” đang phát triển ở các nước Bắc Âu, một số tiểu bang của Mỹ, Canada… Ở châu Á, Nhật Bản là nước có vẻ như đi đầu về trào lưu này. Những người theo trào lưu “Sống tối giản” chủ trương tiêu dùng vừa đủ cho nhau cầu sinh hoạt: quần áo từ 3 - 5 bộ; nhà chỉ đủ để sinh hoạt với giường tủ, bàn ghế đơn giản nhất; sử dụng xe đạp hoặc giao thông công cộng trong thành phố; ăn uống chỉ cần đủ chất và hạn chế ăn thịt; sử dụng thời gian hợp lý, ngoài công việc thì chủ yếu là đọc sách; hạn chế tối đa việc xả thải rác và chất bẩn ra môi trường… Đây là cách sống rất văn hóa. Việt Nam nên tuyên truyền, giáo dục cách sống này.
Như vậy, chúng ta thấy rằng hai chữ “văn hóa” có thể được hiểu và tiếp nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Nói đến văn hóa là nói tới những cái hay, cái đẹp, cái tích cực trong cuộc sống. Vì vậy, việc xem xét và hiểu kỹ hơn hai chữ “văn hóa” giúp chúng ta phân biệt cái tốt, cái xấu; cái tích cực, cái tiêu cực rõ ràng hơn. Việc văn hóa phát triển chưa tương ứng với sự phát triển của nền kinh tế tạo ra nhiều tiêu cực hơn tích cực. Vì vậy, cần tập trung nỗ lực khắc phục điều này.
Nguồn: Văn hóa Nghệ An