Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
"Trai mỹ miều gắng công đèn sách
Gái thanh tân chăm mạch cửi canh
Trai thời chiếm bảng đề danh
Gái thời dệt vải vừa lanh vừa tài”
Đó là những lời ru ngọt ngào, thắm đượm tinh thần giáo dục mà các bà, các mẹ vẫn hằng ru chúng ta ngay từ khi mới lọt lòng. Trong suốt chiều dài văn hiến của dân tộc, tinh thần hiếu học luôn được thắp sáng và gìn giữ, trở thành truyền thống tốt đẹp của bao thế hệ người dân Việt Nam. Những hiền tài của đất nước đã trở thành trụ cột, nguyên khí, sức mạnh để bảo vệ, dựng xây Tổ quốc. Truyền thống hiếu học là thói quen ham thích, coi trọng việc học hành và được hình thành lâu dài, truyền từ đời này sang đời khác. Chính vì được duy trì từ thế hệ này sang thế hệ khác đã tạo thành những dòng họ hiếu học. Một trong những dòng họ vang danh truyền thống giáo dục, đào tạo nhân tài cho đất nước ta, đó chính là dòng họ Hà (Tùng Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh).
Truyền thống học hành khoa bảng là một trong những truyền thống tốt đẹp của họ Hà xã Tùng Lộc. Trong số 35 vị đậu đại khoa của toàn huyện Can Lộc thì họ Hà Tùng Lộc có 2 người là Hoàng giáp Hà Công Trình và Đệ tam giáp Hà Tông Mục. Hà Công Trình còn là một trong số 35 vị đỗ Hoàng giáp của cả tỉnh. Bên cạnh đó, họ Hà xã Tùng Lộc còn có Đệ nhất giáp Tiến sỹ cập đệ, đệ nhị danh (Bảng nhãn) Hà Tông Huân, Đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân Hà Tông Quyền, Phó bảng Hà Văn Đại. Ngoài ra còn có rất nhiều vị đỗ Hương cống, Sinh đồ, Tú tài từ thời Lê – Mạc đến thời Nguyễn. Đồng thời, còn có rất nhiều người họ Hà mặc dù giàu chữ nghĩa nhưng vì những lý do khác nhau đã không ra làm quan mà ở nhà mở trường, mở lớp dạy học. Trở thành những ông đồ, thầy tú truyền bá chữ nghĩa, đạo lý của thánh hiền cho nhân dân nơi cư ngụ, tham gia vào tầng lớp trí thức bình dân nơi thôn dã.
Căn cứ theo cuốn “Hà thị gia phả” (gia phả họ Hà) xã Tùng Lộc cùng gia phả các chi phái họ Hà khác ở Tiên Điền (Nghi Xuân), Cẩm Hưng (Cẩm Xuyên), Đức Vĩnh (Đức Thọ), Sơn Hòa, Sơn Thịnh (Hương Sơn)… và rất nhiều sách, ấn phẩm khác đã được xuất bản như: Nhân vật lịch sử họ Hà Việt Nam; Nhân vật lịch sử họ Hà Nghệ Tĩnh; Họ Hà các nhà khoa bảng, các nhân vật lịch sử, văn bia; Bốn vị danh nhân danh thần họ Hà; Kỷ yếu Hội thảo khoa học…và một hệ thống các di tích lịch sử gắn liền với dòng họ Hà trên địa bàn Hà Tĩnh có thể xác định: Thượng tướng quân, Thượng vị Hầu, Trấn thủ Nghệ An, tự Tông Hiểu Hà Mại (1334 – 1410), là thủy tổ dòng họ Hà ở Nghệ Tĩnh.
Ông là một người nhanh nhẹn, sức khỏe hơn người, văn võ song toàn, được bổ chức chỉ huy Cấm y vệ trong Hoàng thành Thăng Long khi mới 18 tuổi. Từ năm 1356 ông được bổ làm quan trấn ải vùng biên giới phía nam nước Đại Việt. Kể từ đây, cuộc đời và sự nghiệp của Hà Mại gắn liền với việc bảo vệ vững chắc vùng biên ải phía Nam của tổ quốc. Góp phần to lớn trong các cuộc chiến tranh chống giặc Chiêm Thành quấy nhiễu trong những năm từ 1376 - 1389. Năm 1407, quân Minh lấy cớ “khôi phục nhà Trần”, ông tập hợp lực lượng chỉ huy quân dân trong vùng chống lại giặc Minh xâm lược. Đến năm 1410, tướng quân Hà Mại qua đời tại căn cứ Hồng Lĩnh.
Khởi thủy từ Hà Mại, về sau con cháu dần đông đúc. Dòng họ Hà trở thành một cự tộc trên mảnh đất Hồng Lam. Đặc biệt trong đó có rất nhiều người hiển đạt, xuất chúng. Họ là những bậc công thần, danh tướng, hiền tài, nhà khoa học, nhà chính trị xuất sắc đã có nhiều công lao đóng góp cho quê hương đất nước. Gia phả dòng họ viết: "Họ nhà ta phát tích từ cụ tổ tên là Cận ở đất Lạc Dung, Kỳ Hoa. Mộ cụ táng tại núi Phượng Hoàng (núi Hồng Lĩnh), phía trước có Ly Hương sa. Cụ thủy tổ tên húy là Mại, cụ là khai quốc công thần nên con cháu đời đời được hưởng ấm phong. Con cháu đông đàn dài lũ thiên chuyển đi khắp các nơi. Có một nhánh thiên cư về đất Hào Mai, Trung Tiết huyện Thạch Hà là Hà Tôn Hiểu từng phò tá nhà Trần nên được ban tước Hầu kiêm phụng đi sứ phương Bắc. Gia cảnh cụ củng giàu có nhưng gặp phải cảnh binh hỏa nên ẩn cư đến chùa An Lạc, núi Hồng Lĩnh huyện Thiên Lộc. Cụ sinh ra trưởng nam là Hà Nho, tìm đến sinh sống ở thôn Đồng Lương (Lượng?). Sinh thứ nam là Hà Công Trình. Từ nhỏ tính hiếu học, đọc rộng thi thư, là người có đức hạnh nổi tiếng khắp thiên hạ, cự phách đất An – Tĩnh".
Người họ Hà trọng đạo học, luôn luôn lấy học hành cử nghiệp làm đầu, xem đó là con đường dấn thân. Sau thời gian dùi mài kinh sử nơi “cửa Khổng sân Trình” cho đến khi hiển đạt, xuất chính thì củng chính bản thân họ đã đóng góp một phần không nhỏ vào việc chấn hưng giáo dục bằng chính tấm gương của bản thân với những việc làm cụ thể.
Tiêu biểu cho sự đóng góp về mặt giáo dục khoa cử của dòng họ Hà Tùng Lộc, trước hết phải kể đến Hoàng giáp Hà Công Trình (1434-1511). Ông là một con người tập trung đầy đủ phẩm chất đạo đức, trí tuệ và đã đạt đến đỉnh cao văn hiến.
Hà Công Trình (1434 -1511) sinh tại làng Đông Rạng, xã Đông Tỉnh, huyện Thiên Lộc, tỉnh Nghệ An (nay là xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh), trong một gia đình danh tiếng, cụ nội là phụ quốc thượng tướng quân, thượng vị hầu trấn thủ xứ Nghệ An, ông nội là Đại tướng Hoàng Bảng. Bố Hà Công Trình là Hà Nho, bị giặc Minh truy lùng vì ông và cha là quan đại thần nhà Trần và trực tiếp chống lại giặc Minh, nên không có điều kiện theo con đường khoa sử, chỉ làm thầy dạy học. Thủa nhỏ Hà Công Trình nổi tiếng hiếu học, thông minh và có đức hạnh và là một cự phách của xứ Nghệ An. Năm Bính Tuất niên hiệu Quang Thuận thứ 7 (1466), đời vua Lê Thánh Tông, ông thi đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ. Ban đầu ông nhận một chức quan huyện, sau nhờ tài năng, đức độ, được thăng đến thượng thư (tương đương bộ trưởng) lần lượt ở các bộ Binh, Hình, Công; Nhập thị Kinh Diên (giảng kinh sách cho vua) và kiêm chức Tế tửu (hiệu trưởng) Quốc Tử Giám.

Hà Công Trình là Tế tửu Quốc Tử Giám - Ông đã góp phần hoàn thiện các thể chế trong việc đào tạo, tuyển chọn và thi cử, nhờ đó mà triều đình đã tuyển dụng được thêm nhiều nhân tài, khiến cho nguyên khí quốc gia thêm hưng thịnh, tô thắm thêm nền văn hiến nước nhà
Chức Tế tửu có lịch sử nguồn gốc ở Trung Quốc, xuất hiện từ thời nhà Hán. Theo sách Từ nguyên của Trung Quốc, Tế tửu vốn là danh hiệu để chỉ người lớn tuổi nhất, có địa vị cao nhất trong buổi tiệc được chọn làm người dâng rượu tế đất trước khi uống. Về sau, lấy đó đặt chức quan. Tế tửu Quốc Tử Giám ở Việt Nam là chức quan đứng đầu trường Quốc Tử Giám. Theo Quan chế thời Hồng Đức, Tế tửu thuộc hàm Tòng tứ phẩm. Chức trách của Tế tửu được Phan Huy Chú cho biết trong Lịch triều Hiến chương loại chí là: “Phụng mệnh trông coi nhà Văn Miếu, rèn tập sĩ tử, phải chiếu theo chỉ truyền, hằng tháng theo đúng kỳ cho (học trò trường Giám) tập làm văn, để gây dựng nhân tài, giúp việc thực dụng cho nước”. Như vậy, Tế tửu ngoài chức trách là học quan của Quốc Tử Giám còn làm nhiệm vụ trông coi Văn Miếu, thực hiện việc cúng tế xuân, thu nhị kỳ theo quy định tế lễ tại Văn Miếu. Chức trách Tế tửu thời Lê Trung hưng không thay đổi nhiều, nhưng từ năm Bảo Thái thứ 2 (1721), Lê Dụ Tông yêu cầu Tế tửu cùng tham gia giảng dạy cho học trò ở tại Quốc Tử Giám, để khuyến khích sĩ tử, nâng cao chất lượng giáo dục.
Chức năng của Quốc Tử Giám là nơi đào tạo quan lại cho nhà nước, vì thế, Tế tửu với vai trò là người đứng đầu Quốc Tử Giám ngoài việc tổ chức dạy và học, còn phải tổ chức khảo hạch (kiểm tra) sự chuyên cần, tiến bộ của Giám sinh, chấm bài và báo cáo sang Bộ Lại để làm căn cứ bổ tuyển nhân tài theo quy định. Quốc Tử Giám dưới thời Lê còn là cơ quan quản lý giáo dục, đào tạo của nhà nước, nên khi triều đình có chủ trương thay đổi quy chế giáo dục, thi cử, thì quan Tể tửu phải thực hiện thay đổi chương trình dạy và học ở tại Quốc Tử Giám, đồng thời hướng dẫn cho các trường học trong cả nước, cho các học quan ở các địa phương tuân theo.
Tháng 2 năm Nhâm Tuất (1502) đời vua Lê Hiến Tông, niên hiệu Cảnh Thống mở khoa thi hội, Quốc tử giám tế tửu Hà Công Trình được nhà vua giao đọc quyển thi. Là người đức cao vọng trọng, Hà Công Trình đã được vua tin tưởng giao cho chức Độc quyển để lựa chọn nhân tài ra phò vua giúp nước. Trên cương vị là người trông coi một trong những cơ sở giáo dục đào tạo lớn nhất nước lúc bấy giờ (trường Quốc Tử Giám), Hà Công Trình đã góp phần hoàn thiện các thể chế trong việc đào tạo, tuyển chọn và thi cử, nhờ đó mà triều đình đã tuyển dụng được thêm nhiều nhân tài, khiến cho nguyên khí quốc gia thêm hưng thịnh, tô thắm thêm nền văn hiến nước nhà. Hà Công Trình là người đứng đầu lãnh đạo một trường Đại học Quốc gia ở Thăng Long (Tế tửu Quốc Tử Giám), trách nhiệm của ông rất nặng nề, nhưng cũng rất vinh quang và rực rỡ trước sự thành đạt của hàng trăm sĩ tử được đào tạo qua Quốc Tử Giám. Lại một lần nữa, Hà Công Trình xứng đáng là một ngôi sao sáng trên bầu trời văn hóa giáo dục của nước Đại Việt thời Lê sơ.
Hà Công Trình còn được biết đến với câu chuyện “Hòn đá thức tỉnh” gắn liền với sự tích đổi tên làng từ Đông Tỉnh sang Tỉnh Thạch: Năm 1497, nhân Lê Hiến Tông lên ngôi vua, điều Tế tửu Hà Công Trình vào cung làm nhiệm vụ giảng kinh sách. Lê Hiến Tông là vị vua thông minh, quan tâm đến giáo dục, lại dễ gần gũi. Sau các buổi thiết triều, vua thường dành thời gian hỏi han, trò chuyện với các quan hết sức thân mật, vui vẻ. Một hôm, sau khi giảng kinh sách cho vua, nhân vua đang lúc vui vẻ Tế tửu họ Hà liền xin kể câu chuyện về con đường học hành của mình. Vua chú ý lắng nghe. Hà Công Trình thưa: “Thưở nhỏ, thần vốn người ham chơi, không thích học hành. Một hôm đi câu cá về khuya ngang tảng đá đầu làng, mệt quá định leo lên nằm nghỉ một lát, không ngờ thiếp đi lúc nào không hay. Trong mơ, thần thấy có người râu tóc bạc phơ hiện ra rầy la sao cứ ham chơi mà không lo học, phí cả cái tài. Tỉnh dậy, thần hối hận, từ đó quyết bỏ tật ham chơi, rượu chè, tu chí học hành mà được như hôm nay”. Vua khen chuyện hay, có ý nghĩa răn dạy đời sau. Ông nhân đó thưa luôn: “Muốn nước mạnh dân giàu thì người người phải được học nhưng than ôi người thời nay thích ham chơi hon ham học. Bởi vậy, nhân chuyện trên kính tâu bệ hạ cho đổi tên làng từ Đông Tỉnh sang Tỉnh Thạch (hòn đá thức tỉnh) để qua đó khuyến khích người dân đi học”. Vua chuẩn y ngay ý nguyện tốt đẹp của ông.
Sách“Từ điển Hà Tĩnh” (xuất bản năm 2000, trang 716) viết: “Làng Tỉnh Thạch xưa có tên là làng Đông Tỉnh. Tương truyền vào giữa thế kỷ XV, Hà Công Trình vốn nhà nghèo nhưng học giỏi. Một hôm đi câu cá về khuya, nằm lăn ở hòn đá đầu làng ngủ thiếp đi. Trong giấc mơ thấy một người đến gặp khuyên hãy bỏ rượu và tu chí học hành ắt sẽ thành tài”. Xã Tỉnh Thạch có tên đến năm 1945. Sau đó đổi tên thành xã Sơn Thủy. Năm 1948-1952 mang tên xã Ích Hòa. Từ năm 1953 đến nay là xã Tùng Lộc. Hòn đá đầu làng ấy nay vẫn còn tại nhà thờ tổ họ Hà ở Tùng Lộc.
Câu chuyện “hòn đá thức tỉnh” lan truyền nhanh, góp phần hình thành ý thức coi trọng việc học trong nhân dân. Điều thú vị là “hòn đá thức tỉnh” nay vẫn còn, được người dân đặt tại nhà thờ tổ họ Hà như một minh chứng đây là chuyện có thật. Nhờ câu chuyện “hòa đá thức tỉnh”, việc vận động người dân đi học có nhiều thuận lợi hơn. Không chỉ tại Hà Tĩnh quê ông, mà ngay ở kinh thành Thăng Long câu chuyện cũng có tác động rất lớn. Số họ trò đi học tại các huyện, phủ tăng nhanh thấy rõ. Do đó, vào giai đoạn này nhà Hậu Lê đạt sự cực thịnh về mọi mặt, đời sống yên vui, giáo dục được chú trọng đúng mức và có bước phát triển nhanh.
Tuy ở nhiều cương vị khác nhau, tế tửu Hà Công Trình là người luôn nặng lòng với công việc giáo dục. Ông thường nói với học trò người có kiến thức không chỉ tạo dựng được cuộc sống sung túc, mà còn làm cho trí sáng, lòng ngay. Người có tri thức như được sống trong một thế giới khác với thực tại - thế giới của niềm vui, an nhiên tự tại vì ý thức, làm chủ được cuộc sống của mình. Nhờ được học hành, con người vượt qua cuộc sống vật chất tầm thường mà hướng đến những điều cao đẹp. Đất nước có nền dân trí cao thì sẽ hòa bình và giàu mạnh.
Năm 1504, Tế tửu Hà Công Trình về trí sĩ và mở trường dạy học tại quê nhà. Học trò xa gần đến xin học rất đông. Ông tạ thế vào ngày 19 tháng giêng năm Tân Mùi (1511), hưởng thọ 78 tuổi. Cuộc đời làm quan của ông nổi tiếng về sự thanh liêm. Lịch sử xếp ông vào loại danh thần, danh sĩ triều Lê, lưu tên trên bia tiến sĩ và trong danh sách các Tế tửu Quốc Tử Giám.
Tiếp nối là Đệ tam giáp Hà Tông Mục (1653 – 1707), tên húy là Lệnh, tự Hậu Như, hiệu Thuần Như. Hà Tông Mục sinh ngày 25/9/1653 (năm Quý Tỵ) tại làng Tỉnh Thạch, huyện Thiên Lộc, nay là xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Hà Tông Mục là cháu bảy đời của Hà Công Trình (1434 – 1511) - Thượng thư ba bộ Binh, Hình, Công và Tế tửu Quốc Tử Giám thời Lê Sơ. Hà Tông Mục đỗ tiến sĩ năm 1688, lại đỗ đầu kỳ thi ứng chế, tức kỳ thi dành cho các tiến sĩ ở điện Vạn Thọ, đầu bài do chính nhà vua ra. Mấy năm sau, Hà Tông Mục lại thi đỗ khoa Ðông Các là khoa thi đặc biệt chỉ dành cho những người đã đỗ tiến sĩ và đang làm quan.
Ông từng giữ các chức quan như: Lại khoa cấp sự trung (kiểm tra công việc quan lại, tổ chức); Nội tán (dạy học cho con, cháu vua chúa); Thủy sư; Biên tu Quốc Tử Giám; Ðốc đồng (trấn giữ) hai xứ Tuyên – Hưng (Tuyên Quang và Hưng Hóa); Phủ doãn phủ Phụng Thiên (tức Thủ hiến Kinh kỳ - đứng đầu kinh đô Thăng Long); Chánh sứ; Tả thị lang bộ Hình (đứng thứ hai sau thượng thư, hàng tam phẩm).
Thời đại của Hà Tông Mục là thời đại suy vong của nhà Lê, thực quyền thuộc về họ Trịnh, nhà Thanh thường xuyên lăm le xâm lược, trong nước rối loạn, đạo lý suy vi. Sự quật cường và đạo lý tốt đẹp của dân tộc ẩn tàng trong nhân dân và được thể hiện mạnh mẽ bởi những trung chính thần hiếm hoi như Hà Tông Mục. Với tài năng lỗi lạc của mình, Hà Tông Mục đã đóng góp rất xứng đáng để giải quyết mối họa ngoại xâm, giữ yên đất nước, phát triển kinh tế - xã hội ở nơi ông cai quản.
Năm 1699, nhà Thanh xâm lấn Bảo Lạc (Cao Bằng), Hà Tông Mục và Nguyễn Hành đã lui được giặc trong cuộc đấu tranh ngoại giao với Sầm Trì Phượng. Năm 1703, đi sứ sang Trung Quốc, Hà Tông Mục đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, giữ được hòa hiếu hai nước, khiến vua nhà Thanh Khang Hy hết sức cảm phục, tặng cho một bức đại tự do chính Khang Hy viết "Nhược xung hiên", khắc gỗ và sơn son tại Trung Quốc, hiện còn giữ tại đền thờ Hà Tông Mục ở quê. Ba chữ đó có nghĩa là "khiêm nhường, trí tuệ, chí khí cao cả".
Trải qua 19 năm (1688 - 1707) Hà Tông Mục (Hà Tôn Mục) đã đốc hết tâm, sức cho non sông đất nước. Ông là một tướng lĩnh tài ba, một nhà ngoại giao xuất sắc, một người viết sử chỉnh chu, trung thực; là một trong những nhà sử học tham gia soạn bộ “Đại Việt sử ký tục biên”, bộ sử lớn của nhà nước phong kiến thời Lê được lưu truyền đến ngày nay.
Một đóng góp lớn lao nữa của Hà Tông Mục cho văn hoá đất nước và lịch sử Thăng Long Hà Nội, là việc biên soạn nội dung tấm văn bia ở chùa Hồng Phúc (năm 1703), hiện dựng ở ngôi chùa Hoè Nhai, số 19 phố Hàng Than, quận Ba Đình, Hà Nội, để lại cho đương thời và hậu thế nhiều tư liệu quý về Thăng Long trong các thế kỷ XVII – XVIII. Nội dung văn bia ghi lại vị trí địa lý, cảnh quan của chùa Hồng Phúc và những biến cố mà ngôi chùa đã trải qua như việc bị hỏa hoạn. Về tấm lòng từ bi, những đóng góp của các thiện nam, tín nữ, các nhà hảo tâm tại Thăng Long và một số địa phương khác cùng nhà sư trụ trì trong việc sửa sang, tôn tạo lại ngôi chùa. Ngợi ca vẻ đẹp của ngôi danh lam cổ tự Hồng Phúc ở một vị trí đắc địa của kinh thành Thăng Long bằng những lời lẽ, câu từ trong sáng, trau chuốt và giàu chất trữ tình. Đặc biệt đã giúp các nhà sử học nghiên cứu thành công trận đánh Đông Bộ Đầu (tháng 12/1258) đây là địa điểm diễn ra cuộc quyết chiến chiến lược của vua tôi nhà Trần trong cuộc kháng chiến trong cuộc kháng chiến chống Mông Nguyên lần thứ nhất. Trong bài minh Thịnh đức hoành công (công đức cao cả) trên mặt 1 của bia có đoạn: "Ngã Đại Việt Thăng Long thành chi Đông Bộ Đầu Hòe Nhai phường hữu tự danh Hồng Phúc" (Tại phường Hòe Nhai ở Đông Bộ Đầu của kinh thành Thăng Long nước Đại Việt ta, có ngôi chùa tên gọi Hồng Phúc). Như vậy, nhờ vào nội dung của tấm bia này mà các nhà khoa học về sau đã xác định chính xác vị trí của bến Đông Bộ Đầu, giải tỏa được một vấn đề còn tồn nghi của lịch sử trong một thời gian dài.
Ðánh giá công trạng của Hà Tông Mục, các triều Lê, Nguyễn đã ban cho ông tám đạo sắc phong.
Tuy nhiên, lớn lao nhất mà chúng ta thấy được ở ông là tấm lòng ân tình và tư tưởng dân chủ, công bằng, yêu thương con người bao la của Hà Tông Mục. Khi ông còn sống, luôn được nhân dân yêu kính, ngưỡng mộ, lập đền thờ và dựng bia ghi nhớ công lao. Theo cuốn “Văn bia Hà Tĩnh” (tr. 146), Tiến sĩ Hà Tông Mục, với quê hương cũng tình sâu nghĩa trọng: “Ông đối với quê hương ơn sâu đức dày, có nhiều công ngăn trừ tai họa, xóm làng đều bội phục, xin tôn thờ ông và phu nhân nhưng ông đã từ chối việc đó. Phải nài nỉ đến 3 - 4 lần, ông khen là có hậu ý, lại ra ơn cho 8 mẫu ruộng tốt, 4 mảnh ruộng mạ để lo việc nếp xôi. Người làng càng vui mừng, bèn lập sinh từ, đặt tên Sùng Chỉ để lưu lại làm nơi hương khói muôn đời”
Theo văn bia Sùng Chỉ, tiến sĩ Hà Tông Mục, khi làm quan dốc sức vào việc nước, việc dân, kính trời, thương người, lòng mến yêu rộng khắp, luôn chăm lo đến việc tri ân họ hàng, làng xóm. Nhờ ông mà người già được yên ổn, tuổi trẻ được mến thương, người ốm đau được cho thuốc thang, đói khát được chu cấp, trọng vọng người hiền, tha thứ kẻ có lỗi. Nhờ có sự dạy bảo của ông Hà tướng công mà trong dân làng hết kẻ du đảng, trộm cướp. Ông dạy bảo nhà nông lấy việc cấy cày làm ăn, mua trâu đầu cơ nghiệp. Ông Hà Tông Mục nêu cao việc dạy dỗ, cảm hóa, khuyên bảo nhân từ với cấp dưới và người không biết chữ thánh hiền, dạy bảo họ lễ phép để thu phục lòng người. Công đức nhiều, nhưng ông không màng tới việc báo đáp và phục dịch của dân. Nhờ có Hà tướng công mà giảm bỏ được nhiều hủ tục. Khi có việc làng, ông đều bỏ tiền ra chu cấp hội hè. Nhờ ông mà quê hương thịnh vượng. Người dân lưu tán đều tìm đường về quê làm ăn, vui vẻ ấm no: “Nay không biết lấy gì báo đáp, nên lập Sùng Chỉ để phụng thờ muôn đời. Mọi người già trẻ trên dưới trong làng họp lại xin tôn thờ Tướng công làm Tổ Ông của làng, bà họ Vũ làm Tổ Bà của làng để tháng, năm cúng tế lâu dài mãi mãi” (Văn bia Hà Tĩnh, tr.148). Toàn thể chức sắc, già trẻ 4 thôn Mông Tiết, Phúc Hậu, Vinh Phúc và Hữu Phúc đều vui vẻ tôn bầu và ký tên về việc suy tôn Hà Tông Mục vào ngày 6 tháng 6 năm Ất Hợi, niên hiệu Chính Hoà thứ 16 (1695).

Khi Hà Tông Mục còn sống, luôn được nhân dân yêu kính, ngưỡng mộ, lập đền thờ và dựng bia Sùng Chỉ để ghi nhớ công lao.
Người soạn văn bia Sùng Chỉ là Nguyễn Trí Trung, (1648 - 1725) người xã Lực Điền, huyện Đông Yên (nay xã Lý Thường Kiệt, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên), năm 23 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Canh Tuất 1670, niên hiệu Cảnh Trị 8. Làm quan đến chức Đề hình Giám sát ngự sử. Bia Sùng Chỉ dựng vào đầu mùa Thu năm Bính Tý, niên hiệu Chính Hòa thứ 17 (1696).
Thấy văn bia ghi nhiều công trạng của mình, Hà Tông Mục đã nói rằng: “Việc trung cần đối với nước, việc hiếu thuận đối với nhà, ăn ở hòa mục với dân làng là chức phận đương nhiên của tôi vậy. Sau này kẻ hậu sinh có chí thì noi theo, có lòng thì cảm nhận. Ngày nay mọi người đã suy nghĩ như vậy (lập sinh từ) cũng là lẽ Trời, lòng người. Nay xin tự tạ”. Hà Tông Mục mất năm 1707. Trước khi mất ngoài ruộng đất tài sản để lại cho gia đình và người thân, ông cũng không quên chia cho dân chúng 2 làng ở huyện Thiên Lộc xưa. Nay “bia Sùng Chỉ” thuộc sở hữu của họ Hà ở xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc, lưu giữ trong khuôn viên Di tích Hà Tông Mục. Năm 2020, “bia Sùng Chỉ” được công nhận là bảo vật quốc gia. Di tích Hà Tông Mục cũng được công nhận là di tích lịch sử văn hóa quốc gia vào năm 1998.
Chúng ta nhận thấy rằng, hai nhân vật kiệt xuất của dòng họ Hà ở Tùng Lộc (Can Lộc, Hà Tĩnh) Hà Công Trình và Hà Tông Mục là những nhân tài có nhiều đóng góp lớn lao cho đất nước nói chung và Thăng Long (Hà Nội) nói riêng. Hai tiến sĩ đều được lưu danh trên văn bia của Văn miếu Quốc Tử Giám: Bia tiến sĩ tại Văn Miếu Quốc Tử Giám ghi tên những người đỗ khoa thi năm Bính Tuất, niên hiệu Quang Thuận thứ 7 (1466) và bài ký bia tiến sĩ khoa Bính Tuất ghi danh Hà Công Trình, xã Tỉnh Thạch, huyện Thiên Lộc, niên hiệu Hồng Đức thứ 15, đời vua Lê Thánh Tông (1475) đậu Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân; văn bia tiến sĩ Quốc Tử Giám năm 1688 có tên Hà Tông Mục. Họ là những bậc tiền nhân, danh nhân đã đặt nền móng cho sự phát triển nền Quốc học, tạo nên lớp lớp trí thức trong xã hội Việt Nam thời quân chủ. Đồng thời, những đóng góp của họ đối với giáo dục, bồi dưỡng nhân tài và những bài học kinh nghiệm vẫn còn nguyên giá trị đối với đời sống xã hội hiện nay.
Tiếp nối truyền thống tốt đẹp của cha ông, họ Hà Tỉnh Thạch nói riêng và họ Hà các chi phái xuất phát từ đây đều lấy việc học làm đầu. Tiêu biểu như họ Hà Tỉnh Thạch (Can Lộc), Tiên Điền (Nghi Xuân); An Ấp (Hương Sơn), Đức Thọ, Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh), Diễn Châu (Nghệ An). Riêng dòng họ Hà ở vùng Con Cuông (Nghệ An) có hẳn một bản quy ước về việc học của con cháu trong dòng tộc. Trong đó đề ra các quy ước và khuyến khích con cháu học hành phấn đấu theo con đường khoa bảng. Họ Hà Tỉnh Thạch qua 6 đời, đã có hai người đậu đại khoa, còn họ Hà Tiên Điền đời nối đời, có rất nhiều người đỗ Hương cống, Hiệu sinh, Sinh đồ.
Dù ở đâu, dưới triều đại nào trong suốt dòng chảy của lịch sử dân tộc từ đầu thế kỷ XV tới nay, với truyền thống Trung – Dũng – Liêm – Chính quý báu của mình, dòng họ Hà xã Tùng Lộc với những nhân vật ưu tú, kiệt xuất đã có nhiều công lao đóng góp cho nền văn hóa, văn hiến của nước nhà và quê hương xứ sở. Trở thành những tấm gương tiêu biểu điển hình trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần cùng nhân dân cả nước xây dựng một dân tộc Việt Nam cường thịnh, phồn vinh. Dòng họ Hà xứng đáng là một cự tộc trên mảnh đất Hồng Lam linh khí, ngàn năm văn hiến.
Tài liệu tham khảo:
1.Thái Kim Đỉnh (2004), Các nhà khoa bảng Hà Tỉnh; Hội liên hiệp khoa học nghệ thuật Hà Tĩnh.
2. Hà thị gia phả (Gia phả họ Hà Việt Nam) – Lưu tại đền thờ Hà Tông Mục xóm Tây Vinh, xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
3. Lê Bá Hạnh (2001), Lý lịch nhà thờ Hà Tông Mục xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh; lưu trữ tại Bảo tàng tỉnh Hà Tĩnh.
4. Võ Hồng Huy chủ biên (2015), Địa chí huyện Can Lộc; NXB Nghệ An
5. Hà Văn Sỹ (2014), Nhân vật lịch sử họ Hà Việt Nam tập 1; NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
6. Hà Văn Sỹ (2004), Họ Hà các nhà khoa bảng, các nhân vật lịch sử, văn bia; NXB Văn hóa dân tộc.
7. Bảo tàng Hà Tĩnh (2017), Văn bia Hà Tĩnh, NXB Khoa học xã hội.
8. Bùi Thiết (2000), Từ điển Hà Tĩnh, NXB Văn hóa Thông tin
9. Phan Huy Chú (2007), Lịch triều hiến chương loại chí, NXB Giáo dục, Hà Nội