Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Tiên Điền - Lai Thạch là vùng địa linh nhân kiệt, có truyền thống lịch sử, văn hóa lâu đời. Đây là nơi định cư của nhiều dòng họ có truyền thống thi thư và khoa hoạnnổi tiếng thời Lê Trung hưng và những danh nhân tiêu biểu có nhiều công lao đóng góp trên các lĩnh vực văn hóa, chính trị, quân sự, giáo dục, ngoại giao. Nổi bật nhất là chính các danh nhân đó đã tạo nên dòng văn Hồng sơn văn phái nổi tiếng một thời và hiện nay truyền thống đó được thể hiện qua hệ thống di tích lịch sử lưu niệm danh nhân được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt, di tích quốc gia và di tích cấp tỉnh, trong đó phải kể đến các di tích liên quan đến các danh nhân họ Nguyễn - Tiên Điền và họ Nguyễn Huy - Trường Lưu. Đây là những di sản văn hóa quy báu tạo nên bản sắc văn hóa, đồng thời là nguồn tài nguyên văn hóa to lớn cần có các giải pháp bảo tồn và phát huy nhằm phát triển kinh tế - xã hội ở Hà Tĩnh trong kỷ nguyên vươn mình, hội nhập nhập quốc tế hiện tại cũng như tương lai.
1. ĐẶC ĐIỂM DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA TIÊU BIỂU VÙNG TIÊN ĐIỀN - LAI THẠCH VÀ MỘT SỐ DI TÍCH TIÊU BIỂU
Theo thống kê cho đến hiện nay, vùng Tiên Điền - Lai Thạch có 39 di tích lịch sử - văn hóa, trong đó vùng Tiên Điền có 8 di tích (1 di tích quốc gia đặc biệt, 7 di tích cấp tỉnh) chiếm 20,52 % tổng số di tích được xếp hạng. Vùng Lai Thạch có 31 di tích(7 di tích quốc gia, 24 di tích cấp tỉnh)chiếm 79,48% tổng số di tích được xếp hạng, lớn gần gấp 4 lần số lượng di tích vùng Tiên Điền. Các di tích vùng Tiên Điền - Lai Thạch chủ yếu là di tích lịch sử lưu niệm danh nhân gồm 36 di tíchchiếm 92,3% tổng số di tích được xếp hạng.Dòng họ Nguyễn Huy - Trường Lưu có11 di tích (5 di tích quốc gia, 6 di tích cấp tỉnh) chiếm 28,20% di tích được xếp hạng.Di tích vùng Tiên Điền - Lai Thạch là nhà thờ họ và lưu niệm danh nhân có 29 di tích, chiếm 74,36% di tích được xếp hạng. Đình làng có 1 di tích chiếm2,56% di tích được xếp hạng. Chùa có 1 di tích, chiếm 2,56% được xếp hạng. Đền thờ có 3 di tích chiếm 7,69% di tích được xếp hạng. Di tích lịch sử cách mạng có 02 di tích chiếm 5,13% tổng số di tích được xếp hạng.
|
TT |
Tên di tích |
Địa điểm |
Ghi chú |
|
1 |
Di tích Khu Lưu niệm Nguyễn Du |
Vùng Tiên Điền |
Di tích quốc giađặc biệt |
|
2 |
Di tích Nhà thờ Đặng Thái Bàng |
Vùng Tiên Điền |
Di tích cấp tỉnh |
|
3 |
Nhà thờ họ Hà |
Vùng Tiên Điền |
Di tích cấp tỉnh |
|
4 |
Nhà thờ Đặng Sĩ Vinh |
Vùng Tiên Điền |
Di tích cấp tỉnh |
|
5 |
Nhà thờ Đặng Sĩ Hàn |
Vùng Tiên Điền |
Di tích cấp tỉnh |
|
6 |
Mộ và Nhà thờ Trần Bảo Tín |
Vùng Tiên Điền |
Di tích cấp tỉnh |
|
7 |
Nhà thờ Trần Duy Đổng |
Vùng Tiên Điền |
Di tích cấp tỉnh |
|
8 |
Nhà Thờ Đặng Thái Bàng |
Vùng Tiên Điền |
Di tích cấp tỉnh |
|
9 |
Nhà thờ Nguyễn Uyên Hậu |
Vùng Lai Thạch |
Di tích cấp tỉnh |
|
10 |
Mộ Nguyễn Huy Tựu |
Vùng Lai Thạch |
Di tích quốc gia |
|
11 |
Đình Trường Lưu |
Vùng Lai Thạch |
Di tích cấp tỉnh |
|
12 |
Mộ và Nhà thờ Nguyễn Huy Oánh |
Vùng Lai Thạch |
Di tích quốc gia |
|
13 |
Nhà thờ Nguyễn Huy Tự |
Vùng Lai Thạch |
Di tích quốc gia |
|
14 |
Nhà thờ Nguyễn Huy Cự |
Vùng Lai Thạch |
Di tích quốc gia |
|
15 |
Nhà thờ Nguyễn Huy Vinh |
Vùng Lai Thạch |
Di tích cấp tỉnh |
|
16 |
Nhà thờ Nguyễn Huy Hổ |
Vùng Lai Thạch |
Di tích quốc gia |
|
17 |
Mộ Nguyễn Công Ban |
Vùng Lai Thạch |
Di tích cấp tỉnh |
|
18 |
Chùa Minh Thịnh |
Vùng Lai Thạch |
Di tích cấp tỉnh |
|
19 |
Nhà thờ Lưu Hữu |
Vùng Lai Thạch |
Di tích cấp tỉnh |
|
20 |
Nhà thờ Trần Quỳ |
Vùng Lai Thạch |
Di tích cấp tỉnh |
|
21 |
Nhà thờ Nguyễn Duy |
Vùng Lai Thạch |
Di tích cấp tỉnh |
|
22 |
Nhà thờ Trần Văn Tùy |
Vùng Lai Thạch |
Di tích cấp tỉnh |
|
23 |
Nhà thờ Nguyễn Huy Liêu |
Vùng Lai Thạch |
Di tích cấp tỉnh |
|
24 |
Nhà thờ Hoàng Độ |
Vùng Lai Thạch |
Di tích cấp tỉnh |
|
25 |
Nhà cổ Nguyễn Huy Thản |
Vùng Lai Thạch |
Di tích cấp tỉnh |
|
26 |
Địa đạo Phượng Sơn |
Vùng Lai Thạch |
Di tích cấp tỉnh |
|
27 |
Nhà thương Lam Kiều |
Vùng Lai Thạch |
Di tích cấp tỉnh |
|
28 |
Nhà thờ Trần Tịnh |
Vùng Lai Thạch |
Di tích quốc gia |
|
29 |
Đền thờ Nguyễn Thiếp |
Vùng Lai Thạch |
Di tích quốc gia |
|
30 |
Nhà thờ Nguyễn Bật Lãng |
Vùng Lai Thạch |
Di tích cấp tỉnh |
|
31 |
Đền Yên Tràng |
Vùng Lai Thạch |
Di tích cấp tỉnh |
|
32 |
Nhà thờ họ Võ |
Vùng Lai Thạch |
Di tích cấp tỉnh |
|
33 |
Mộ và NT Nguyễn Văn Truyền |
Vùng Lai Thạch |
Di tích cấp tỉnh |
|
34 |
Nhà thờ Vũ Diệm |
Vùng Lai Thạch |
Di tích cấp tỉnh |
|
35 |
Đền thờ Phan Kính |
Vùng Lai Thạch |
Di tích quốc gia |
|
36 |
Nhà thờ Nguyễn Tâm Hoằng |
Vùng Lai Thạch |
Di tích cấp tỉnh |
|
37 |
Nhà thờ Nguyễn Phúc Thư |
Vùng Lai Thạch |
Di tích cấp tỉnh |
|
38 |
Nhà thờ Vũ Thông |
Vùng Lai Thạch |
Di tích cấp tỉnh |
|
39 |
Nhà thờ Nguyễn Sỹ Thanh - Nguyễn Sỹ Phương |
Vùng Lai Thạch |
Di tích cấp tỉnh |
Di tích vùng Tiên Điền - Lai Thạch chủ yếu liên quan đến các danh nhân thời Lê Trung hưng, có đóng góp lớn đối với quê hương đất nước, tiêu biểu có Tể tướng Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm, Đại thi hào Nguyễn Du, Thám Hoa Nguyễn Huy Oánh, Nhà thơ Nguyễn Huy Tự, Thám hoa Phan Kính, Tiến sĩ Nguyễn Tâm Hoằng, Tổng Thái Giám Văn Lý hầu Trần Tịnh, La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp, … Qua đó, di tích vùng này đã thể hiện khá rõ nét truyền thống lịch sử, văn hóa của vùng đất địa linh sinh nhân kiệt. Để làm rõ giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học của các di tích vùng Tiên Điền - Lai Thạch, xin giới thiệu ngắn gọn một số di tích tiêu biểu như sau:
1.1. Di tích Khu lưu niệm Nguyễn Du

Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du.
Di tích Nguyễn Du được Thủ tướng Chính phủ công nhận di tích quốc gia đặc biệt ngày 27 tháng 9 năm 2012. Di tích tọa lạc trong khuôn viên rộng 4ha, bên Quốc lộ 8B, xã Tiên Điền, tỉnh Hà Tĩnh với quần thể di tích họ Nguyễn - Tiên Điền, bao gồm: Đàn tế và bia đá, cây cổ thụ Nguyễn Quỳnh trồng, nhà tư văn, đền thờ Nguyễn Nghiễm, đền thờ Nguyễn Trọng, mộ và đền thờ Nguyễn Du. Đàn tế và bia đá do Xuân quận công Nguyễn Nghiễm và Nguyễn Trọngdựng năm Nhâm Ngọ(1762), niên hiệu Cảnh Hưng thứ 23 đời vua Lê Hiển Tông để tưởng niệm cha, mẹ. Nguyễn Quỳnh trông ba cây cổ thụ là: Xoài, bồ lỗ và rói để khi về thăm quê, Nguyễn Huệ, Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Trọng có chỗ hạmã. Nhà tư văn còn gọi là nhà văn thánh, đời vua Lê Nhân Tông (1732 - 1735)thờ Khổng Tử, thờ đạo học và những người đỗ đạt trong huyện Nghi Xuân. Đây cũng là nơi bình thơ văn, ngâm thơ, ẩm tửu và hát ả đào. Đền thờ Nguyễn Nghiễm được xây sẵn và đặt ruộng cúng khi ông còn sống. Sau khi qua đời, các đời vua phong thượng đẳng tôn thần, Huân du Đô hiến đại vương, hàng năm quốc tế. Đền thờ Nguyễn Nghiễm cũng được xây sẵn và đặt ruộng tế, trước đền dựng bia tích gia thiện hay còn gọi là bia gia huấn. Nhà thờ và bài vị Nguyễn Du được dựng năm Giáp Thân (1824), niên hiệu Minh Mệnh thứ 5. Đây cũng là năm cải táng và đưa hài cốt Nguyễn Du về quê nhà.
1.2. Di tích lịch sử - văn hóa tại làng Trường Lưu

Toàn cảnh làng Trường Lưu, nhìn từ trên cao.
Làng Trường Lưu, xưa thuộc xã Lai Thạch, tổng Lai Thạch, huyện La Sơn, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay thuộc xã Trường Lưu, tỉnh Hà Tĩnh). Là một trong những ngôi làng văn hóa nổi tiếng của Việt Nam, có dòng họ Nguyễn Huy nổi tiếng đã sinh ra các bậc hiền tài làm rạng danh cho quê hương, đất nước. Nơi đây có Trường Lưu bát cảnh: Quan thị triêu hà (Ráng sớm trước chợ Quan), Phượng sơn tịch chiếu (Nắng chiều trên núi Phượng), Hân tự hiểu chung (Chuông gọi sáng chùa Hân), Nghĩa thương vãn thác (Tiếng mõ chiều kho Nghĩa), Cổ miếu âm dung (Bóng rợp che cổ Miếu), Liên trì nguyệt sắc (Ánh trăng dưới hồ sen), Thạc tỉnh tuyền hương (Hương thơm nước giếng Thạc), Nguyễn trang hoa mỹ (Hoa đẹp trong vườn họ Nguyễn); hội tụ nhiều di tích lịch sử văn hóa với 5 di tích lịch sử- văn hóa quốc gia như mộ Nguyễn Huy Tựu, nhà thờ Nguyễn Huy Oánh, nhà thờ Nguyễn Huy Tự, nhà thờ Nguyễn Huy Hổ, đền thờ Nguyễn Huy Cự; 11 di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh như nhà thờ Nguyễn Uyên Hậu, đình Trường Lưu, địa đạo Phượng Sơn, nhà thương Lam Kiều, nhà thờ Nguyễn Huy Liêu…; 37 nhà thờ của các dòng họ và 10 ngôi nhà cổ có lịch sử hàng trăm năm, tiêu biểu có nhà cổ Nguyễn Huy Thản. Đặc biệt, làng Trường Lưu có 3 di sản được UNESCO công nhận là Di sản Tư liệu thuộc Chương trình Ký ức Thế giới khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, đó là: Mộc bản Trường học Phúc Giang; Hoàng Hoa sứ trình đồ;Văn bản Hán Nôm làng Trường Lưu.
1.3. Đền thờ Phan Kính
Đền thờ Phan Kính xưa thuộc làng Vĩnh Gia, xã Lai Thạch, huyện La Sơn (nay thuộc xã Trường Lưu, tỉnh Hà Tĩnh).
Phan Kính (1715 - 1760), sinh năm Ất Vị (1715), niên hiệu Vĩnh Thịnh, triều vua Lê Dụ Tông trong một gia đinh khoa bảng. Cha ông là Phan Quán làm đến chức Đông Các Đại Học Sĩ. Phan Kính tự Dĩ Trực, hiệu Tĩnh Trai, đỗ Thám hoa và làm quan dưới thời vua Lê Hiển Tông, niên hiệu Cảnh Hưng. Ông đi sứ và được vua Càn Long mộ tài,đức nên phong ông là lưỡng quốc Đình nguyên Thám hoa và được ban tặng chiếc cẩm bào màu vàng và chiếc trướng ghi dòng chữ “Thiên triều đặc tứ, bắc đẩu dị nam, nhất nhân nhi dĩ” (Thiên triều đặc ban, phía nam bắc đầu, chỉ một người thôi). Sau khi mất, năm Cảnh Hưng thứ 44 (1783), ông được vua Lê Hiển Tông ban sắc phong là “Thành hoàng hiệu Anh Nghị Đại Vương”.
Đền thờ Phan Kính ngoảnh về hướng Tây, bao gồm nghi môn, nhà bia, đền thờ. Đền thờ có kết cấu kiến trúc kiểu nhà kẻ, lợp ngói mũi với 3 bức tường bao quanh. Thượng ốc trang trí rồng chầu mặt nguyệt. Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học, đền thờ Phan Kính đượcBộ Văn hóa - Thôn tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử quốc gia năm 1992.
1.4. Đền thờ Nguyễn Thiếp
Đền thờ Nguyễn Thiếp (1723 - 1804), hay còn gọi là đền La Sơn Phu tử, xưa thuộc thôn Mật Thiết, xã Nguyệt Ao, tổng Lai Thạch, huyện La Sơn, phủ Đức Quang, xứ Nghệ An, nay là xã Trường Lưu, tỉnh Hà Tĩnh.
Ông sinh năm Quý Mão (1723), niên hiệu Bảo Thái thứ 4, đời vua Lê Dụ Tông trong một gia đình có truyền thống văn học và khoa bảng. Ông có hiệu La Sơn Phu tử, người đời gọi là Hạnh Am tiên sinh, Nguyệt Ao tiên sinh, Lục Niên tiên sinh. Ôngtừng đỗ Hương giải, năm Mậu Thìn (1748), thi Hội đỗ Tam trường, rồi làm Huấn đạo Anh Đô, Tri huyện Thanh Chương. Năm Mậu Tý (1768), ông treo ấn từ quan.
Trong lịch sử nước ta, ông là một trong 3 đại danh sư được giới học thuật xếp vào hàng phu tử, đó là Chu Văn An (1292-1370), Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) và Nguyễn Thiếp (1723-1804). Là một nhân vật nổi tiếng uyên thâm học cao hiểu rộng, ông đã góp phần rất quan trọng giúp vua Quang Trung đánh tan 29 vạn quân Thanh vào Tết Kỷ Dậu (1789). Sau đó, vua Quang Trung đã giao cho ông trọng trách cải tổ nền giáo dục với mục đích đưa đất nước trở thành một quốc gia cường thịnh. Nguyễn Thiếp là tấm gương sáng chói về tri thức và đạo đức cho nhiều thế hệ ở Việt Nam. Ông là trường hợp duy nhất trong lịch sử nước ta được tất cả các quân vương đương thời, từ Chúa Trịnh Sâm, Quang Trung Nguyễn Huệ, Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản cho đến Gia Long Nguyễn Ánh trọng vọng và cầu mong hợp tác.
Đền thờ Nguyễn Thiếp ở xã Trường Lưu đã được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa quốc gia năm 1994. Đền gồm có nghi môn, tắc môn, tả vu, hữu vu, bái đường, thượng điện bố trí đăng đối trên trục thần đạo.
1.5. Mộ và đền thờ Trần Tịnh
Mộ và đền thờ Trần Tịnh xưa thuộc thôn Mật Thiết, xã Nguyệt Áo, tổng Lai Thạch, huyện La Sơn, phủ Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh (nay là thôn Lũy, xã Trường Lưu, tỉnh Hà Tĩnh).
Trần Tịnh sinh ra trong một gia đình danh giá và nề nếp. Thửa nhỏ nổi tiếng học giỏi, thông minh, tư chất hiền lành, hòa thuận với gia đình, làng xóm
Năm Hoằng Định thứ 2 (1601) đời vua Lê Kính Tông, nhờ có công lao ông được phong chức Hiệp mưu tá lý công thần. Năm Hoằng Định thứ 5 (1604), ông được phong chức Tổng thái giám, Chưởng cung nội thừa chế sự, tước Văn Lý hầu.
Công lao lớn nhất của ông là đối với ngoại thương giữa Việt Nam và Nhật Bảntrên dòng sông Lam ở xứ Nghệ An, vào thế kỷ XVI khi ông đang làm Tổng thái giám, Thượng giám sự.Ngoài việc tạo thuận lợi cho các thương nhân nước ngoài, đặc biệt là thương nhân Nhật Bản qua cửa sông Lam vào sâu trong nội địa phố cổ Phù Thạch, Phục Lễ - Chợ Tràng giao thương buôn bán thì ông cũng là một trong những người có công rất lớn cứu vớt thương nhân Nhật Bản trong một vụ đắm tàu ở cửa biển Đan Nhai (Cửa Hội) vào đầu thế kỷ XVII. Một người phụ nữ được ông cứu vớt làm con nuôi của ông tên là Trần Thị Dưỡng Nương được ông gã cho một người trong dòng họ Nguyễn Huy là Nguyễn Như Thạch.
Sau khi ông mất, đền thờ ông được nhân dân và dòng họ lập tại quê nhà. Nhớ tới công lao của ông, nhiều triều vua đã ban sắc phong thần cho ông giao cho nhân dân thờ phụng. Di tích thờ Trần Tịnh có mặt bằng kiểu tiền miếu, hậu lăng. Đền có các đơn nguyên kiến trúc như nghi môn, tắc môn, bái đường và hậu cung. Với những giá trị lịch sử văn hóa và khoa học, mộ và đền thờ Trần Tịnh đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích lịch sử - văn hóa quốc gia năm 2020.
2. THỰC TRẠNG BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH
Di tích lịch sử - văn hóa vùng Tiên Điền - Lai Thạch được hình thành và trao truyền từ thế hệ này cho đến thế hệ khác và trở thành nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng góp phần to lớn trong việc phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội. Nhận thức được điều này, trong nhiều năm qua các cấp chính quyền và chủ sở hữu di tích đã thực hiện nhiều công việc nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di tích.
Trước tiên, trên cơ sở các đơn đề nghị xếp hạng di tích, Sở Văn hóa, Thể thao Du lịch đã phối hợp với các cấp liên quan tiến hành khảo sát đánh giá hiện trạng và giá trị của từng di tích có nhiều tiềm năng từ đó có những đề xuất kịp thời, cụ thể. Căn cứ vào Luật Di sản văn hóa hiện hành, đối với những di tích đã được xếp hạng là di tích quốc giacó giá trị đặc biệt thì chủ sở hữu di tích có đơn đề nghị và lập hồ sơ nâng hạng trình Thủ tướng Chính phủ công nhận di tích quốc gia đặc biệt như di tích Nguyễn Du. Đối với các di tích đã được công nhận di tích cấp tỉnh đáp ứng đầy đủ các tiêu chí để được công nhận di tích quốc gia thì Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tiến hành lập hồ sơ khoa học trình Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích quốc gia như di tích đền thờ Nguyễn Huy Cự, mộ và đền thờ Trần Tịnh, mộ Nguyễn Huy Tựu. Đối với các di tích chưa được xếp hạng mà đủ các tiêu chí xếp hạng cấp tỉnh theo luật định thì trên cơ sở các đơn đề nghị xếp hạng của chủ sở hữu di tích, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phân công tác giả lập hồ sơ khoa học trình UBND tỉnh xếp hạng di tích cấp tỉnh. Việc lập hồ sơ xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt, quốc gia và cấp tỉnh là cơ sở khoa học và pháp lý để bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích.
Thêm vào đó, nhiều năm qua, nhờ việc ban hành các chủ trương chính sách kịp thời của Đảng và Nhà nước về bảo tồn và phát triển văn hóa mà di sản văn hóa nói chung, di tích lịch sử - văn hóa bước vào giai đoạn phục hưng dựa vào xã hội hóa hoạt động và sự đầu tư của Nhà nước. Trong những năm trở lại đây, các di tích vùng Tiên Điền - Lại Thạch đã được đầu tư rất lớn như di tích Nguyễn Du đã được Nhà nước đầu tư hàng chục tỷ đồng để tu bổ, phục dựng, tôn tạo và phát huy giá trị di sản, đặc biệt là nhân dịp kỷ niệm 250 năm sinh Đại thi hào Nguyễn Du (1765 - 2015). Ngoài ra, hàng năm, Nhà nước đã đầu tư hàng chục tỷ đồng để cùng với chủ sở hữu di tích hỗ trợ tu bổ các di tích bị xuống cấp, số hóa hàng nghìn tài liệu Hán Nôm như sắc phong, câu đối, gia phả, khế ước, bài vị… tại di tích.
Bên cạnh những mặt đạt được, công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích bộc lộ một số hạn chế như việc tu bổ, tôn tạo di tíchcòn thiếu bản sắc. Việc sử dụng một số vật liệu ngoại lai để tu bổ, tôn tạo di tích còn phổ biến. Một số di tích gốc bị phá hủy bởi thiên nhiên và sự vô ý thức của con người. Việc phát huy giá trị nhiều di tích được quan tâm, tuy nhiên thiếu chiều sâu. Nhiềudi tích lịch sử - văn hóa vẫn chưa thực sự trở thành nguồn lực để phát triển kinh tế xã hội.
3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH
Bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, việc bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa vùng Tiên Điền - Lai Thạch là việc hết sức cần thiết để phát triển du lịch - ngành công nghiệp không khói của tỉnh Hà Tĩnh và Việt Nam khi mà nhiều du khách trong và ngoài nước đi du lịch đến Việt Nam để tìm hiểu những giá trị lịch sử, văn hóa thông qua tham quan di tích lịch sử - văn hóa tọa lạc trên địa bàn, được lưu truyền, gìn giữqua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Việc thường xuyên đổi mới trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di tích là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Việc nghiên cứu những di sản vật thể, phi vật thể và di sản tư liệu gắn di tích thông qua đăng ký, triển khai các đề tài khoa học có liên quan sẽ là bước đi đầu tiên để nhận diện sâu sắc những khía cạnh cốt lõi hình thành nên những giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thẩm mỹ và kinh tế để từ đó làm cơ sở cho việc Nhà nước hoạch định chính sách lâu dài về việc bảo tồn và phát huy giá trị di tích. Nghiên cứu di sản kiến trúc sẽ góp phần vào việc quảng bá, tu bổ tôn tạo các di sản kiến trúc thông qua việc thống kê, so sánh, đổi chiếu, phân loại để nhận diện bản sắc di sản góp phần vào việc tham khảo về kiểu dáng, hình thức, phong cách trang trí trong việc tu bổ các công trình kiến trúc cổ và tôn tạo, xây dựng các kiến trúc mới. Nghiên cứu các di sản tư liệu tại di tích thông qua phiên âm, dịch nghĩa nhằm biên soạn các ấn phẩm sẽ góp phần hiểu sâu hơn về địa danh cổ, tập quán xã hội, tôn giáo, tín ngưỡng, tập tục lễ hội, danh nhân dòng họ liên quan đến di tích lịch sử - văn hóa như chùa, đình, đền, miếu, nhà thờ họ… Nghiên cứu các di sản vật thể như di vật, cổ vật và bảo vật quốc gia như bia đá, tượng, đồ tế khí gắn với di tích sẽ góp phần cho ta biết được niên đại di tích, trình độ thẩm mỹ, phong cách trang trí, truyền thống nghệ thuật, dấu ấn thời đại sinh ra chúng, làm cơ sở cho việc hình thành các giá trị văn hóa mới.
Công tác đào tạo, tập huấn cho các cán bộ phụ trách việc bảo tồn và phát huy di tích lịch sử - văn hóa vùng Tiên Điền - Lai Thạch sẽ tạo được một đội ngũ có kiến thức chuyên môn sâu rộngđáp ứng nhu cầu nhiệm vụ trong kỷ nguyên mới, nhất là đội ngũ các thuyết minh viên và cán bộ bảo quản phòng ngừa và trị liệu tại di tích, kịp thời có những phản ứng kịp thời do thực tiễn đặt ra.
Bảo tàng hóa hoạt động của các di tích lịch sử - văn hóa thông qua công tác nghiệp vụ như nghiên cứu, sưu tầm, bảo quản, kiểm kê, phục chế tài liệu hiện vật, di tích gốc làm cơ sở cho việc thuyết minh, truyền bá các kiến thức khoa học, xây dựng các chương trìnhgiáo dục thu hút công chúng đến tham quan, học tập, nghiên cứu và giải trí.
Số hóa và chuyển đổi số trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích vùng Tiên Điền - Lai Thạch trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết.Việc số hóa các di vật, cổ vật và bảo vật quốc gia thông qua mã QR, quét 3D, đặc biệt là thực tế ảo VR đang là xu hướng hiện nay. Đây là công nghệ sử dụng máy tính để tạo nên môi trường mô phỏng 3 chiều (3D), cho phép người dùng tương tác và trải nghiệm thế giới như thể họ thực sự ở trong đó. Việc số hóa sẽ góp phần vào việc bảo vệ, bảo quản, phục chế các hiện vật thông qua việc lưu trữ số và khai thác trên môi trường mạng. Vì vậy, việc hình thành một tài nguyên cơ sở dữ liệu về các di tích lịch sử - văn hóa vùng Tiên Điền - Lai Thạch là việc cần làm.
Tuyên truyền, phổ biến Luật Di sản văn hóa và các văn bản pháp luật có liên quan cho các tầng lớp nhân dân từ đó xây dựng thói quen về công tác bảo tồn và phát huy giá trị của các di tích lịch sử - văn hóa vùng Tiên Điền - Lai Thạch.
Hợp tác quốc tế, tranh thủ tiếp nhận các kiến thức khoa học toàn cầu trong việc bảo quản, tu bổ, tôn tạo các di tích thông qua tổ chức các hội thảo khoa học, tọa đàm quốc tế là việc cần làm, nhất là trong thời đại phát triển khoa học, công nghệ mạnh mẽ như hiện nay.
KẾT LUẬN
Tóm lại, di tích lịch sử - văn hóa vùng Tiên Điền - Lai Thạch phần lớn liên qua đến các danh nhân có những đóng góp to lớn trên các lĩnh vực văn hóa, chính trị, quân sự,giáo dục, ngoại giao trong các giai đoạn lịch sử, đặc biệt hình thành nên dòng văn Hồng sơn văn phái nổi tiếng tiêu biểu như Truyện Kiều, Hoa Tiên truyện, Mai Đình mộng ký… với những tác giả văn học như Nguyễn Du, Nguyễn Huy Oánh, Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Huy Hổ… Ngày nay, việc bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa vùng đất này là hết sức cần thiết góp phần phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, là cơ sở để giao lưu và hội nhập quốc tế./.