Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Hà Tĩnh là vùng đất có truyền thống giáo dục Nho học tự lâu đời. Thời nào, Hà Tĩnh cũng có nhiều người đỗ đạt làm rạng danh quê hương, dòng họ và gia đình. Thời Trần, đã có nhiều người học hành đỗ đạt như cha con Trạng nguyên Sử Hy Nhan, Sử Đức Huy, Đào Tiêu, Đặng Bá Tĩnh, Nguyễn Biểu. Tuy nhiên, giáo dục khoa cử nở rộ nhất vẫn là ở thời Hậu Lê và thời Nguyễn, nổi lên với hàng loạt dòng họ khoa bảng như dòng họ Nguyễn Huy (Trường Lưu), dòng họ Nguyễn (Tiên Điền), dòng họ Phan Huy (Thu Hoạch), Đinh Nho (Gôi Mỹ), họ Phan (Việt Yên Hạ), họ Hà (Tĩnh Thạch), họ Ngô (Trảo Nha), họ Lê (Mỹ Lũ)… Đặc biệt, họ Nguyễn Huy Trường Lưu còn mở Trường học Phúc Giang, tạo mộc bản in sách giáo khoa thu hút hàng nghìn sĩ tử theo học. Truyền thống giáo dục khoa cử đó của Hà Tĩnh đã được thể hiện qua folklore rất rõ.
Folklore về truyền thống giáo dục Nho học của Hà Tĩnh là hình thức thể hiện nhân sinh quan của người Hà Tĩnh về học hành khoa cử, được hình thành và lưu truyền trong nhân dân qua nhiều thế hệ trong tiến trình lịch sử lâu dài của địa phương và dân tộc, trong sinh hoạt, lao động sản xuất, trong đời sống tình cảm, tâm linh trong mối tương quan với cá nhân và xã hội.
1. Folklore ca ngợi truyền thống học hành khoa bảng của Hà Tĩnh
Ca dao tục ngữ ngợi ca vùng đất truyền thống học hành khoa cử. Hiện nay ở xã Yên Hồ, huyện Đức Thọ còn truyền câu ca:
Kẻ Giè vang tiếng truyền xa,
Có hai quan trạng dân ta phụng thờ
Kẻ Giè thuộc xã Bà Hồ, nay là xã Yên Hồ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Còn “hai trạng” là Trạng nguyên Đào Tiêu và Khôi nguyên Đoàn Xuân Lôi. Đào Tiêu đỗ Trạng nguyên khoa thi năm Ất Hợi, niên hiệu Bảo Phù thứ 3 (1275), đời vua Trần Thánh Tông. Đoàn Xuân Lôi quê xã Ba Lỗ, xã Tân Phúc (nay là thôn Trâu Lỗ, xã Mai Đình, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang), đỗ đầu (Khôi nguyên) khoa thi Thái học sinh năm Giáp Tý, niên hiệu Xương Phù thứ 8 (1384), đời vua Trần Phế Đế. Ông làm đến chức Trung thư Thị lang, rồi làm Thông phán ở Ái Châu. Do làm trái ý Thượng hoàng và Hồ Quý Ly, ông bị đi đày vào đất Nghệ An và sau ở lại xã Bà Hồ, huyện Chi La, lộ Nghệ An[1].
Tại làng Ngọc Sơn, phường Đức Thuận trước đây còn lưu truyền hai câu thơ:
Trần triều trạng nguyên nhị
Lê triều tiến sĩ tam
Câu ca này ca ngợi truyền thống học hành khoa bảng của vùng đất Ngọc Sơn - Bình Lãng. Hai trạng nguyên là cha con Sử Đức Nhan và Sử Đức Huy. Sử Hy Nhan nguyên họ Trần Hy Nhan, giỏi sử nên được vua ban họ Sử nhờ tác phẩm “Đại Việt sử lược”, người ấp Ngọc Sơn, xã Bình Lãng Thượng, huyện Phi Lộc (nay là phường Đức Thuận, thị xã Hồng Lĩnh). Ông đỗ Trạng nguyên khoa Quý Mão (1363), đời vua Trần Du Tông; làm quan trải ba triều vua Trần Dụ Tông, Trần Nghệ Tông và Trần Duệ Tông đến chức Kim tử vinh lộc đại phu Nhập nội hành khiển, Tri kinh diên, Tri tân khách đại học sĩ. Sử Đức Huy con của Sử Hy Nhan, đỗ Trạng nguyên khoa Tân Dậu (1381), đời vua Trần Phế Đế. Ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn từ năm 1925, về sau làm Quốc tử bác sĩ thăng đến Thượng thư Bộ Hộ, hai lần đi sứ Trung Quốc. Ba tiến sĩ là Hồ Bỉnh Quốc, Hồ Bỉnh Quân (Đỗ khoa sĩ vọng) và Phan Hưng Tạo. Hồ Bỉnh Quốc, người xã Bình Lãng, huyện Thiên Lộc (nay thuộc thị xã Hồng Lĩnh), đỗ Nhị giáp chế khoa, làm quan đến chức Hữu thị lang Bộ Hộ, Giám khảo khoa thi hội, sau giữ chức Thừa chánh sứ Thanh Hoa, Tả thị lang bộ lại, tước Lễ cung nam, khi chết được tặng Thượng thư, tước Quận công. Phan Hung Tạo, còn gọi là Phan Hưng Vận, người xã Bình Lãng, huyện Thiên Lộc, 45 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ. Ông làm quan đến Bồi tụng, Đô cấp sự trung; khi chết được tặng Lại Bộ Tả thị lang, tước Quận công.
Tại xã Thanh Lộc, huyện Can Lộc, đến nay vẫn lưu truyền hai câu thơ:
Kiệt Thạch tam khoa tam tiến sĩ
Hằng Nga cửu thế cửu cung phi
Câu ca này tự hào ca ngợi truyền thống kho cử Nho học xã Kiệt Thạch dưới thời phong kiến. Xã Kiệt Thạch, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang, nay là xã Thanh Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Tam tiến sĩ ở đây gồm Hoàng Hiền, Nguyễn Cung, Thái Kính. Hoàng Hiền đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa thi năm Mậu Tuất, niên hiệu Hồng Đức thứ 9 (1478), quê ở xã Kiệt Thạch, đứng thứ 44 trong đệ tam giáp, làm quan đến chức Tả thị lang. Nguyễn Cung đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân khoa thi năm Quý Sửu, niên hiệu Hồng Đức thứ 24 (1493), quê xã Kiệt Thạch, đứng thứ ba trọng đệ nhị giáp, làm quan đến chức thừa chánh sứ ti. Thái Kính đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa thi Tân Mùi, niên hiệu Hồng Thuận thứ 3 (1511), quê xã Kiệt Thạch đứng thứ ba trong hàng đệ tam giáp, làm quan đến chức Hình bộ Tả thị lang.
Thiên hạ thiếu chi người sang
Đã Lê Sỹ Bàng, lại Lê Sỹ Triêm
Câu ca ca ngợi hai anh em đồng khoa Lê Sĩ Triêm, Lê Sĩ Bàng, quê xã Nội Thiên Lộc, nay là xã Thuần Thiện, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Hai anh em đều thi đỗ cùng khoa thi Bính Thìn, niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 2 (1736). Năm 33 tuổi, Lê Sỹ Bàng đỗ Đệ nhị giáp đồng Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp), làm quan đến Đông các đại học sĩ, tước Bá, sau làm Phó đốc thị Nghệ An. Năm 44 tuổi, Lê Sỹ Triêm đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, làm đến chức Đông các học sĩ.
Tại Nghi Xuân, từ trước đến nay vẫn lưu truyền câu ca: Ló Xuân Viên, quan Tiên Điền, tiền Hội Thống
Hay: Bao giờ Hồng Lĩnh hết cây
Sông Rum (Lam) hết nước, họ này hết quan[2]
“Họ này” và “quan Tiên Điền”, đó là ca ngợi dòng họ khoa bảng Nguyễn - Tiên Điền. Đây là dòng họ trâm anh thế phiệt với 5 người đỗ đại khoa, 7 người đỗ hương cống/cử nhân, 7 người đỗ tam trường/tú tài. Nguyễn Quỳnh, người đỗ tam trường đầu tiên của họ, có 6 người con trai thì hai người đỗ đại khoa là Tiến sĩ Nguyễn Huệ, Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm, Hương cống Nguyễn Trọng, Sinh đồ Nguyễn Sĩ. Nguyễn Nghiễm là thân phụ của Đại thi hào Nguyễn Du làm đến chức Tế tửu Quốc Tử Giám, Tể tướng thời Lê Trung Hưng, một người văn võ toàn tài, lập nhiều chiến công củng cố chính quyền Lê Trịnh. Con đầu của Nguyễn Nghiễm là Nguyễn Khản đỗ Tiến sĩ. Năm người con còn lại đỗ hương cống. Ngoài ra, dòng họ Nguyễn - Tiên Điền còn có truyền thống dạy học. Nguyễn Nghiễm có công dạy học hàng chục nhà khoa bảng trong đó có Tiến sĩ Ngô Phúc Lâm, Hương cống Nguyễn Thiếp. Nguyễn Khản từng làm Tả tư giảng, thầy học của vua Lê, chúa Trịnh. Nguyễn Nhưng, Nguyễn Đăng, Nguyễn Tùng đều ở nhà “dạy học, làm thuốc, làm địa lý, bói toán…”
Bút Cấm Chỉ, sĩ Thiên Lộc
Bút bán ở phố Cấm Chỉ còn học trò giỏi là người Thiên Lộc. Sĩ Thiên Lộc là nói về Vũ Toại (Diệm) ở Thổ Vượng, một trong “Tràng An tứ hổ gồm: Quỳnh, Tân, Lân, Toại và có ‘Tràng An tứ hổ” khác là Sỹ Bồi, Sĩ Bạt, Quang Hiển, Tất Đạt thì 3 người là người Thiên Lộc. Bồi, Đạt là cháu Tiến sĩ Nguyễn Văn Giai ở Ba Xã, còn Hiển tức Trần Quang Hiển ở Bạt Trạc. Thời Nguyễn, Thiên Lộc cũng có “tứ hổ”: Lưu Công Đạo, Phan Quỳ, Lê Hồng Hàn và Mai Thế Chuẩn.

Ngôi Từ đường họ Nguyễn ở làng cổ Tiên Điền
2. Folklore ca ngợi người học giỏi, có tinh thần vượt khó, giúp đỡ nhau trong học tập
Hà Tĩnh, thời phong kiến, là vùng đất phiên trấn xa kinh đô Thăng Long (thời Lý, Trần, Hậu Lê) và kinh đô Huế (thời Nguyễn). Vùng đất này có điều kiện tự nhiên không thuận lợi, lắm nắng, nhiều mưa, đất đai cằn cỗi, là lực cản không nhỏ để phát triển kinh tế, xã hội, tạo nên con người ở đây có tính cách “chịu thương, chịu khó” vươn lên bất chấp hoàn cảnh khó khăn, nghèo khó. Nhiều người đã chọn việc học hành đỗ đạt, khoa cử để tiến thân đổi đời, làm rạng danh quê hương, dòng họ và gia đình. Nhiều tấm gương về tinh thần vượt khó, giúp đỡ nhau trong học tập được phản ánh trong folklore của vùng đất nơi đây, đặc biệt là qua các truyện kể dân gian được lưu truyền cho đến tận ngày nay. Chúng phản ảnh khá sinh động và đa chiều khắp các vùng miền ở Hà Tĩnh, đặc biệt là những địa phương có truyền thống giáo dục khoa cử. Sau đây là một số truyện kể tiêu biểu.
Truyện kể “Lai lịch tấm bia cầu Thị Lang” cho thấy vào nửa cuổi thế kỷ 15, Trần Dực, người xã Ngãi Lăng, huyện La Sơn sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo khó phải vừa đi chăn trâu, vừa học tập và rất thông minh, thuộc làu kinh sử, văn chương. Năm 30 tuổi, ông đỗ Hương cống, cả làng vui mừng và tự hào. Năm sau ra kinh đô Thăng Long thi Hội, không đủ tiền trang trải học hành thi cử nên ông dấu tung tích theo hầu một ông cống nhà giàu cùng lên kinh ứng thí. Khoa ấy, Trần Dực đỗ Hội nguyên, nhị giáp Tiến sĩ, còn ông cống kia đậu hạng thấp hơn. Hôm đến dự yến vua ban, ông ta bất ngờ nhận ra vị hội nguyên là người hầu hạ mình, vội vàng đến tạ lỗi. Trần Dực khiêm tốn nói chính ông mới phải cảm ơn bác. Không có quan bác giúp đỡ thì ông đâu có cơm ăn mà vào trường.
Truyện kể “Cô gái Kẻ Lách và ông bảng Khải Mông” kể về Trần Bảo Tín, thông minh nhưng nhà lại nghèo, mẹ phải bán nước bên đường cái để nuôi ông ăn học. Bà tằn tiện góp tiền cho ông đến thầy đồ trong làng đi học. Ông chăm chỉ và chỉ dăm năm thì làu thông kinh sử, chữ tốt, văn hay. Tuy nhiên, do nghèo nên ông không đủ tiền mua giấy bút. Một hôm bà mẹ đưa ông 12 đồng tiền kẽm ra chợ mua giấy viết. Bà hàng giấy đòi đủ tiền mới bán. Chưa biết làm sao thì có một người con gái đi qua bảo cứ bán giấy cho ông, số tiền thiếu cô sẽ bù. Ông chưa kịp nhìn rõ mặt thì cô gái đi mất. Từ đó, thỉnh thoảng lại có người để lại hàng nước của bà mẹ một ít tiền đủ cho ông mua giấy bút, đèn sách. Thấy có người phúc đức giúp mình mà không biết là ai, Trần Bảo Tín chỉ biết ra sức học hành để không phụ lòng mẹ và ân nhân giúp mình. Năm ấy, do lo làm bài thuê kiếm tiền giúp mẹ, không tập trung làm bài cho mình nên ông thi trượt. Về nhà, thấy mẹ buồn, ông tiếp tục dùi mài kinh sử. Khoa thi sau đó, ông đỗ Hương cống, rồi ra Thăng Long thi Hội, đỗ Nhất giáp Tiến sĩ Đệ nhị danh (Bảng nhãn), tiếng đồn dậy kinh kỳ. Nhiều nhà quan quyền, giàu có muốn gả con gái cho ông nhưng ông đều khước từ. Ông chỉ muốn tìm lại người con gái đã giúp mình lúc nghèo khó. Đó là cô gái bên Kẻ Lách đã kết duyên với ông Bảng bên Khải Mông thành vợ chồng.
Truyện “Thửa ruộng tiền đò” kể về tinh thần vượt khó của Lê Đắc Toàn. Vào thế kỷ 17 có người học trò nghèo ở Kẻ Giè là Lê Đắc Toàn thụ giáo với ông nghè Phan Hưng Tạo bên Kẻ Thổ, xã Bình Lãng, huyện Thiên Lộc (nay là phường Đức Thuận, thị xã Hồng Lĩnh) phải qua sông Mêênh, đoạn bến đò Giè. Không có tiền qua đò nên mỗi lần đi về, ông phải tìm đến chỗ khuất, cởi quần áo bơi sang sông. Ông lái đò biết chuyện thương tình cho anh hàng ngày đi đò học tập. Sau này thi đỗ tiến sĩ đi làm quan xa nhưng vẫn chưa đáp được cái nghĩa lúc nghèo khó. Một lần về quê, hỏi thăm thì biết ông lái đò Giè đã qua đời. Lê Đắc Toàn đã mua mấy sào ruộng giao cho con cháu ông lái đò cày cấy lấy hoa lợi để hương hỏa. Vì vậy, ruộng ấy dân làng gọi cho cái tên là “ruộng tiền đò”.
Truyện kể “Mài sắt nên kim” kể về việc học tập của Phan Đình Phùng, người Yên Việt, huyện La Sơn. Ông là người tối dạ, học trước quên sau. Thấy anh em ai cũng giỏi nên ông nhất quyết “đóng cửa đọc sách để theo kịp mọi người”, thế mà chẳng tấn tới là bao. Có đợt ông xin đi thi nhưng ông bác Phan Đình Tuấn không cho nên ông tự tử bằng thuộc độc may mà mọi người phát hiện được sớm, cứu được. Nghe mẹ và mọi người khuyên giải, ông nguôi dần, đóng cửa đọc sách. Nhưng mãi đến khoa thi Bính Tí, năm Tự Đức thứ 29 (1876) ở tuổi 32 ông mới đỗ Cử nhân. Năm sau Đinh Sửu (1877) vào thi Hội ở kinh đô Huế, đỗ Đình Nguyên tam giáp đồng Tiến sĩ.
Truyện kể “Học không biết chán, dạy không biết mỏi” kể về Tiến sĩ Phan Nhật Tỉnh, quê Yên Đồng (nay là xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ). Ông bị cận thị nhưng có trí nhớ rất tốt. Lúc đã thi đỗ, chưa xuất chính, đi dạy ông vẫn không ngừng học tập. Đặng Duy Thận quê Phật Náo biết tiếng mời về dạy cho con (Sau này là Thám hoa Đặng Văn Kiều). Một hôm, nhà hết dầu chưa kịp đi mua, tối đến ông Đặng phải sai người nhà cầm đuốc nứa, soi cho thầy đọc sách. Sáng hôm sau thầy nhất quyết đòi về, ông Đặng phải van nài mãi thầy mới chịu ở lại. Để thầy tin, ông bán mảnh ruộng, trồng tiền dưới bàn, danh mua dầu cho thầy dùng”.
Khi ra làm quan, hễ có lúc rỗi ông liền cầm sách đọc. Năm Tự Đức thứ 6 có khoa thi sát ngạch quan văn. Bài của ông được nhà vua xếp hạng ưu, đúng thứ nhất trong số 37 vị đại khoa. Ông được bổ làm Tế tửu Quốc Tử giám. Khi làm giáo chức đã đành, khi giữ chính chức, ông cũng sẵn sàng thu nhận những ai cần học, hiếu học. Ai được thụ nghiệp với ông cũng đều coi là vinh hạnh.
Truyện kể “Giỏi sử, được ban họ sử” là nói về Trạng nguyên Sử Hy Nhan, tác giả của cuốn “Đại Việt sử lược”. Ông là người học rộng, “xuất khẩu thành chương”, đặc biệt rất giỏi sử. Một hôm vua ngự triều, gọi ông lên và hỏi vua nghe nói ông rất thuộc sách, nhất là rất nhớ sử. Ông kiêm tốn trả lời ông cũng biết ít nhiều. Vua muốn nghe ông đọc lại bộ Bắc sử. Ông tuân lệnh. Vua sai quan nội giám đưa bộ Bắc sử ra, giở từng trang theo dõi. Ông đọc liên tục một mạch đến hết 27 cuốn không sai một câu, một chữ làm cho bá quan đều kinh ngạc. Nhà vua khen ngợi ban cho ông họ Sử[3].
Trong folklore ở Hà Tĩnh không chỉ đề cấp đến ý chí vượt khó học tập và học giỏi mà đòn đề cập đến việc bạn bè giúp đỡ lẫn nhau trong học tập. Truyện kể “Giúp bạn thi đỗ Tiến sĩ” kể về hành trình học tập và thi đỗ đại khoa của Tiến sĩ Đinh Nho Công là một ví dụ điển hình. Ông người xã Yên Ấp (nay thuộc xã An Hòa Thịnh, huyện Hương Sơn). Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Tuất, năm Cảnh Trị thứ 8 (1670), đời vua Lê Huyền Tông. Năm 30 tuổi, ông mới bắt đầu nuôi chí đèn sách và ra Thanh Hoa tìm thầy học đạo. Tại đây ông kết bạn với Trần Toản, một học sinh học tập rất giỏi. Ba năm sau cả hai ứng thí và đều đỗ Cử nhân. Sau đó cả hai tạm biệt nhau, hẹn 3 năm sau ra Thăng Long thi Hội. Sắp đến ngày hẹn, Đinh Nho Công gặp bạn trong giấc mơ, bạn bảo đã qua đời một tháng nay rồi và bảo ông đi qua nhà bạn lấy bài mình soạn sẵn cho mà đi thi, chắc chắn sẽ đỗ tiến sĩ. Năm đó, Đinh Nho Công đỗ Tiến sĩ. Khi về vinh quy bái tổ trong giấc mơ ông thấy bạn nhờ ông xây cho ngôi đền nơi có đám mây trắng đang tụ ở làng Thịnh Xá. Sáng mai dậy, ông thấy đám mây trắng tụ ở Cồn Mai và ông cho xây một ngôi đền ở đó gọi là đền Bạch Vân.
3. Folklore về truyền thống khuyến học của người Hà Tĩnh
Các thư tịch cổ đã cho thấy vùng đất Hà Tĩnh đã có truyền thống khuyến học từ lâu đời. Nơi đây nhân dân đã biết tích góp lấy các phần thưởng để thưởng cho những người học hành chăm chỉ đỗ đạt. Câu chuyện về người cha của Thám hoa Nguyễn Huy Oánh là Nguyễn Huy Tựu lấy mẫu ruộng riêng của mình lập “ruộng khoa danh” để biểu dương, khen thưởng những người đỗ đạt. Câu chuyện nàỳ được Nguyễn Huy Oánh kể lại như sau: Cha ông là quan Tham chính, thủa nhỏ nghèo túng, mới cùng mẹ ông chuyển nhà về phía Nam làng lấy việc dạy dỗ học trò làm vui. Học trò bốn phương đến thụ nghiệp có đến 1218 người. Tiền quà lễ thầy của người đời cha ông để riêng một bao, sau đó mua được một mảnh ruộng ở Cồn Hiên. Theo năm tháng, mảnh đất này rộng dần lên hơn một mẫu. Lúc rỗi việc giảng học, cha ông dẫn các cháu đi xem xét vòng quanh ruộng mấy lượt, rồi bùi ngùi quay về nhà. Đến khi cha ông mất có lời trăng trối, ông cùng anh em ngồi chực bên dường, chưa nói đến việc khác, trước tiên cha ông dặn dò việc lấy ruộng đó làm “ruộng khoa danh”, lại giảng giải rằng phàm là chi trên, phái dưới, tức đều có hai bảng thi Hương và thi Hội trong thứ hạng đã chia; đã phân đại khái một lần rồi lại phân dần dần, có ai đỗ thì lấy của chung đó mà khen thưởng, biểu dương.[4]
Qua điều ước thôn Trường Lưu, ngoài việc quy định về phong hóa, quy định cúng tế ở đình, đền, ruộng tế, ruộng đất công, núi non, kho nghĩa thương, tiền của công, đường sá, đề điều, cầu cống, giếng nước, hồ ao, vệ sinh còn có quy địnhh lễ mừng thi đỗ thăng quan...[5] Nếu người nào đỗ đạt được phong sắc và thăng chức thủ chỉ, dùng câu đối, trầu cau, rượu để chúc mừng.[6] Nếu có người được đỗ đạt, thăng chức hoặc lên lão 60 trở lên được bái yết thần linh thì được dùng trầu cau rượu đến yết vọng.[7]
Hương ước xã Phù Lưu Thượng (nay là xã Hồng Lộc, huyện Lộc Hà) năm Tự Đức thứ 7 (1854) phần lệ sai điền ngoài quy định giành phần ruộng để thu hoa lợi cúng tế, ruộng biếu quan viên, ruộng dưỡng lão, ruộng binh đinh, ruộng hương thân thì xã giành một phần ruộng quan trọng làm ruộng khuyến học giao cho Văn hội trông coi, sử dụng. Tất cả các loại ruộng này đều được miễn thuế[8]. “Đặt ruộng khuyến học 4 mẫu 10 thước, trong đó 2 mẫu ở xứ đồng Hổ, xứ Cồn Khẩu […] còn 2 mẫu nữa và 10 thước ở xung quanh đền [...]. Bản xã hàng năm mời thầy về dạy học (thầy là cử nhân hay tú tài) cho học trò trong xã. Số ruộng ấy giao cho các lân trưởng (trưởng xóm) cày cấy, hàng năm chiểu thu thóc như các thửa xung quanh đền, chi thu vụ hè mỗi mâu 10 phương (mỗi phương 50 bát); ruộng ở xứ đồng Hổ vụ hè mỗi mẫu 10 phương, vụ thu mỗi mẫu 5 phương. Số thóc ấy dùng để nuôi thầy. Lại đặt tiền vay 75 quan, giao cho các lân trưởng luân lưu giữ (nếu có kiện cáo giao cho hương nhân giữ, mỗi vụ chiểu thu tiền lãi 15 quan nạp cho thầy để làm lễ thúc tu, không được gây chuyện phá ngang, người nào làm trái, cứ lân trưởng bồi thường.”[9]
Hương ước xã Phù Lưu Thượng (nay là xã Hồng Lộc, huyện Lộc Hà) năm Tự Đức thứ 7 (1854) phần lệ sai điền còn ưu tiền chia thêm phần ruộng cho người đỗ đạt. “Đặt ruộng quan viên 5 mẫu tại xứ đổng Hổ (đông gần suối nhỏ, tây gần ruộng các xóm, nam gần ruộng câu đương, bắc gần ruộng tế Đinh) gồm 15 thửa liền nhau. Số ruộng này, chiếu cứ khoa trường và quan viên văn võ, mà chia ra các hạng khác nhau cấp cho như: Khoa trường đệ nhất giáp 5 phần, đệ nhị giáp 4 phần, đệ tam giáp 3 phần, phó bảng, cử nhân 2 phần, tú tài 1 phần.”[10].
Người được đỗ đạt cũng được khao thưởng, chúc mừng. Điều lệ xã Nhân Canh, tổng Hà Trung, huyện Kỳ Anh (nay là xã Kỳ Châu, thị xã Kỳ Anh) quy định “Đỗ đại khoa thì khao thưởng 20 quan tiền, đỗ phó bảng thì thưởng 15 quan tiền, đỗ cử nhân thưởng 10 quan tiền, tú tài 6 quan […] Lễ mừng đại khoa 15 quan, phó bảng 10 quan, cử nhân 6 quan, tú tài 5 quan và đều được mừng 1 đôi câu đối.”[11]. Hương ước thôn Xuân Trì (nay thuộc xã An Hòa Thịnh quy định: “Người đỗ tiến sĩ trở lên, lễ mừng 10 quan, trầu rượu trị giá 2 quan. Người đỗ phó bảng, cử nhân văn, lễ mừng 5 quan và trầu rượu. Người đỗ cống sinh, cử nhân võ, tú tài mừng tiền 3 quan và trầu rượu. Lệ mừng người đỗ tiến sĩ, phó bảng võ cũng giống lệ mừng người đỗ tiến sĩ, phó bảng văn.”[12]
Dưới xã hội phong kiến ở Hà Tĩnh cũng có phong tục mừng người đỗ đạt khoa cử, coi việc đó là quan trọng nhất thể hiện truyền thống học hành khoa cử của địa phương đã có từ lâu đời. Hương ước thôn Vĩnh Lộc (nay thuộc xã Cẩm Thịnh, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh) năm Bảo Đại thứ 17 (1942) quy định: “Khoa cử là quan trọng nhất, lễ mừng cho người đỗ đại khoa, định tiền 50 quan, người đỗ trung khoa 30 quan, đỗ tiểu khoa 20 quan.”[13] Hương ước xã Trung Hà, tổng Chu Lễ, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, năm Bảo Đại thứ 6 (1931), quy định: “Lễ chúc mừng. Người nào dự thi có văn bằng, có khao vọng tại trong hương, thì loại lớn dùng một con bò, loại vừa một con lợn, loại nhỏ dùng trầu rượu.”[14] Hương ước xã Phù Lưu Thượng (nay thuộc xã Hồng Lộc, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh), năm Tự Đức thứ 7 (1854), phần lễ khánh hạ (chúc mừng có ghi: “Hễ khi văn sĩ, có người đỗ đại khoa nhất giáp mừng tiền 40 quan, một bức trướng giá tiền 25 quan (bài văn mừng vốn do quan hội trưởng soạn, nếu bận công việc đi xa cũng phải cho người đem đến bản xã trình bản khởi thảo, không được thuê người làm thay, sẽ không tránh khỏi sự bất nhã). Người đỗ đại khoa nhị giáp, mừng tiền 30 quan, một bức trướng trị giá 20 quan. Người đỗ tam giáp mừng tiền 20 quan, một bức trướng 15 quan. Người đỗ phó bảng, mừng tiền 20 quan, một câu đối trị giá tiền 3 quan, ngày vinh quy bản xã, ở kỳ đầu sai người đem nghi trượng cờ trống và đinh phu 50 tên đến bản tỉnh đón rước để được long trọng. Người đỗ cử nhân, mừng tiền 10 quan, đôi câu đối trị giá 2 quan. Người đỗ tú tài, mừng tiền 6 quan, trầu rượu trị giá 6 mạch, ngày hôm sau khi đăng tên trên bảng, bản xã sai người đem nghi trượng, cờ trống và 30 tên đinh phu đến địa giới bản huyện đón rước, để việc ấy được trọng thị.”[15]
Về lễ biếu ở xã Phù Lưu Thượng, những người có học hành khoa bảng cũng được ưu tiên, kính trọng và được quy định rất chặt chẽ có thứ bậc rõ ràng từ trên xuống dưới, từ cấp thấp đến cấp cao, coi trọng văn hơn võ, người khoa mục hơn người chức tước thể hiện một phần quan trọng nền trí trị trong cộng đồng làng xã xưa, hiện nay còn nguyên giá trị để tham khảo, học tập vì “hiền tài là nguyên khí quốc gia”. Hương ước chỉ rõ: “Biếu là thể hiện lòng người vậy. Thờ ở từ vũ thì bậc khoa trường là chủ, vốn xứng đáng là quan Hội trưởng, còn các bậc quan viên văn võ không xuất thân từ khoa mục, thì không được viện lý do mình có phẩm hàm mà tranh ngôi trưởng. Thờ ở đình trung thì kiêm quản quan tước khoa trường làm trọng, vốn xứng đáng là quan thủ chỉ, còn việc thứ tự trước sau, chiểu y như lệ cấp ruộng mà thi hành, không được viện lý do mình có phẩm hàm mà tranh ngôi trưởng. Như lễ tế Nhị đình, đầu con vật sống làm lễ tế, biếu cho người giáp thứ nhất, đầu con vật sống làm tế lễ khác biếu các viên thuộc giáp thứ hai, thịt ướp biếu các viên thuộc giáp thứ ba. Nếu như không có người thuộc giáp thứ nhất, thì đầu con vật làm lễ tế, biếu giáp thứ hai, đầu con vật làm tế lễ nữa, biếu các viên thuộc giáp thứ ba. Thịt ướp biếu các viên phó bảng, cử nhân. Nếu không có người thuộc giáp thứ nhất, giáp thứ hai, đầu con vật sống biếu các viên thuộc giáp thứ ba, óc và lưỡi biếu các hội trưởng. Còn cỗ chín biếu mỗi viên hai mâm, cổ con vật sống làm lễ tế biếu các viên phó bảng, cử nhân, cổ chính biểu mỗi viên một mâm. Thịt ướp nữa trên biếu các viên tú tài, cổ chín hai viên một mâm, thịt ướp nửa dưới biếu các viên văn võ (không thuộc chân xuất thân khoa mục) và các viên chức sắc, hương thân đến làm lễ (như: tả văn, bồi tế, điểm, độc, thượng hương, tiến tước). Cứ bốn viên được một mâm cổ chín. Nếu như chưa có tiến sĩ, đầu con vật sống làm tế lễ, biếu các viên phó bảng, cử nhân, óc lưỡi biếu riêng hội trưởng. (Như: có phó bảng, lấy phó bảng làm hội trưởng, chưa có phó bảng lấy cử nhân làm thủ khoa làm hội trưởng, ngoài ra đều phỏng theo như thế). Cỗ chín hội trưởng hai mâm, còn lại mỗi viên một mâm. Đầu con vật sống làm lễ tế các viên tú tài, cỗ chín cùng hai viên một mâm.”[16]
Trong xã hội phong kiến những người có học hành cũng được ưu tiên giảm bớt gánh nặng trách nhiệm chung đối với việc làng việc nước. Hương ước xã Vân Chàng (nay thuộc thị xã Hồng Lĩnh) năm Bảo Đại thứ 17 (1942) ghi rõ lệ khích lệ: “Xã ta vốn xưng là xã văn hiến, nên các sĩ tử được miễn trừ sưu dịch thì dân mới trọng. Nay nghĩ loại người được đi thi thì thu 4 hào. Người nào đã qua kỳ thi thì giảm 2 hào. Đỗ nhất trường thì thu 4 hào, đỗ nhị trường thì thu 6 hào. Các tạp dịch của người đó cũng châm chước để tỏ sự chuộng văn học”.[17]
4. Folklore về ưu tiên, đề cao đạo học, quý trọng người có học, đỗ đạt, “tôn sư trọng đạo”
Hương ước thể hiện phong tục, tập quán của một làng xã. Hương ước xã Xuân Viên – Nghi Xuân soạn năm 1847 có phần quy định chúc mừng bằng vật chất và tinh thần những người trong xã thi đỗ tiến sĩ, cử nhân, tú tài qua các kỳ thi hương, thi hội, thi đình. Hương ước quy định “Người thi đỗ khoa thi hương, thi hội, bản xã lượng bắt đinh phu đem nghi trượng đi đón. Số đinh phu ấy ở ngoài số do bản huyện, bản tổng bắt. Người đỗ tam giáp tiến sĩ, phải có 100 đinh phu trở lên đón tiếp ở bên đình bản tổng. Người đỗ phó bảng, cử nhân phải có 80 tên, người đỗ tú tài 60 tên đều đến đầu địa giới đón tiếp. Phàm người thi đỗ và người được ban cho sắc mệnh, bản xã đều có lễ chúc mừng bằng trầu rượu, giới hạn ở mức độ một quan, tùy theo khoa danh lớn nhỏ, quan chức cao thấp có sai số gia giảm phân biệt. Việc nghênh tiếp, lễ cáo yết đều đình chỉ. Còn như vị thứ quan chức trước sau, đã định theo phẩm trật, nhưng triều đình đã chọn kẻ sĩ đã có thứ bậc cao thấp, nên tham khảo cân nhắc: đỗ tiến sĩ là văn cho thứ bậc tam phẩm, là võ cho thứ bậc nhị phẩm; đỗ phó bảng, cử nhân là văn cho thứ bậc ngũ phẩm, là võ cho thứ bậc tứ phẩm, đỗ tú tài là văn cho thứ bậc ngũ phẩm, là võ cho thứ bậc lục phẩm.”[18]
Tục thờ tôn thờ những người có thành tích đỗ đạt khoa cử trong văn hóa dân gian (folklore) qua di tích lịch sử - văn hóa thờ những người đỗ đạt, khoa bảng được thể hiện rất rõ ở Việt Nam nói chung và Hà Tĩnh nói riêng chứa đựng nhiều giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể phong phú còn được lưu truyền cho đến ngày nay như Đền Song Trạng Nguyên (phường Đức Thuận – thị xã Hồng Lĩnh) thừ hai cha con Trạng nguyên Sử Hy Nhan và Sử Đức Huy, Đền thờ Thái học sinh Nguyễn Biểu (xã Yên Hồ - huyện Đức Thọ), Đền thờ Bảng nhãn Lê Quảng Chí (xã Kỳ Phương – thị xã Kỳ Anh), Đền thờ Tiến sĩ Lê Quảng Ý (xã Kỳ Phương – thị xã Kỳ Anh), Đền thờ Hoàng giáp Nguyễn Văn Giai (xã Ích Hậu – huyện Lộc Hà), Đền thờ Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm (thị trấn Tiên Điền – huyện Nghi Xuân), Nhà thờ họ Nguyễn Huy (xã Trường Lộc)... Nhiều vị được các điều đại phong kiến ban sắc phong thần và nhiều người được phong làm thành hoàng làng. Nhiều người còn được lập sinh từ để thờ sống nhưu Hà Tông Mục, Nguyễn Công Trứ...
Ngoài việc lập đền thờ các vị đỗ đại khoa, thì việc lập văn miếu, nhà thánh, văn từ, văn chỉ để thờ đạo học cũng khá phổ biến ở Hà Tĩnh thường có ruộng công phục vụ việc thờ cúng và được các thủ chỉ chăm sóc, hương hỏa bởi những người cao tuổi, có kinh nghiệm, chu đáo, cẩn thận, có thái độ cư xử ngày thẳng đầy đặn, trước sau như một. Hương ước xã Phù Lưu Thượng (nay là xã Hồng Lộc, huyện Lộc Hà) năm Tự Đức thứ 7 (1854) phần lệ sai điền cũng quy định hàng năm có 2 ngày lễ tế Đinh Xuân, Thu tế Khổng Tử ở văn miếu, văn chỉ vào ngày “đinh”. Xuân đinh là ngày đinh vào thượng tuần (có khi trung tuần) tháng hai; Thu đinh là ngày đinh thượng tuần (có khi trung tuần) tháng tám. “Đặt ruộng xôi hai mẫu, trong đó một mẫu trước cửa đền, một mẫu ở xứ đồng Hổ, 3 thửa liền nhau, ruộng mùa một khoảnh, tại xứ, tại xứ đồng Hội Thượng (đồng gần ruộng lão Kiệm, tây, bắc gần đường đi). Số ruộng ây giao quan viên hội trưởng Văn hội coi giữ, mỗi vụ chiểu thu xôi nếp 4 cân (mỗi cân nặng 40 bát) để làm lễ cúng tế. Lại đặt mua ruộng để làm cổ mặn (sinh điền) 2 mẫu 3 sào. Những thửa ấy liền nhau tại xứ Cửa Lỗi, đồng Hổ (đông giáp núi, tây gần ruộng xóm Thạch Bàn, nam gần ruộng quan viên, bắc gần ruộng chùa), ruộng mạ ở gần xứ đồng Hội Thượng hai khoảnh liền nhau (tây, bắc gần ruộng mạ bản xã, đông, nam gần đường đi). Số ruộng đó giao cho viên thứ hai Văn hội coi giữ, mỗi vụ chiểu thu bằng tiền 6 quan để mua sắm lễ vật. Lại đặt ruộng 3 thửa tại xứ Hoàn Bi (trong đó một thửa đông nam gần đường đi, tây gần ruộng lão Học, bắc gần ruộng Thị Cẩm; thửa thứ hai, đông gần ruộng lão công, tây gần ruộng lão Vinh, nam gần ruộng Hiệp Tham, bắc gần ruộng Cụ Quan). Số ruộng đó giao cho viên thứ ba của Văn hội trông giữ, mỗi vụ chiểu thu bằng tiền 3 quan, để mua sắm lễ vật. Lại đặt ruộng 3 thửa tại xứ Cửa Xâm (trong đó, một thửa đông nam gần đường; tây gần ruộng nhiêu Vượng, bắc gần ruộng nhiêu Phụng; thửa thứ hai liền nhau, đông bắc gần đường, tây gần ruộng Thi Đức, nam gần ruộng lão Ký). Số ruộng ấy giao cho viên thứ tư của Văn hội coi giữ, mỗi vụ chiểu thu xôi nếp 1 cân (nặng 30 bát), gà 3 con để cúng Túc yết.”[19] “Lễ tế tự là lễ để kính thần minh, an ủi lòng người, làm rõ quý tiện, phân biệt tôn ty. Từ vũ xã ta ở xứ Cồn Thả, phụng thờ tiên thánh, tiên hiền và các tiên sinh đã đỗ đạt. Đỗ tam giáp tiến sĩ trở lên, chỉ dùng yết lế, không câu nệ vào lễ ước. Người đỗ phó bảng, cử nhân yết lễ dùng xôi 1 cân, gà 1 con, và nộp tiền vọng 1 quan. Người đỗ tú tài, yết lễ giống người đỗ cử nhân và nạp tiền vọng 6 quan thì đều được cho thờ tại đó.”[20] Hương ước thôn Kim Nặc, tổng Thổ Ngọa, huyện Cẩm Xuyên có quy định: “Tế lễ ở văn chỉ: đời trước còn lưu giữ đặt ruộng công một mẫu, ruộng cúng tiên hiền, sung vào làm tế lễ (ngoài một sào giao cho thủ từ giữ để đèn nhang)”[21]. Hương ước thôn Lai Lộc, xã Ngọa Triều, tổng Thổ Quả, huyện Kỳ Hoa, phủ Hà Hoa, nay thuộc xã Cẩm Thịnh, huyện Cẩm Xuyên có ghi rõ “Lệ chọn bầu thủ từ, tri sự cho Thánh chỉ, Thần miếu: Tại thánh chỉ, thần miếu, bản thôn chọn bầu một người cao niên cẩn trọng, trung hậu làm thủ từ, cứ đến các tiết sóc vọng đốt hương cúng các sở sao cho được tinh khiết để trọng sự thần linh.”[22]
Việc coi trọng những người có học thức cũng được thể hiện rất rõ trong thứ tự chỗ ngồi trong hương thôn, đền miếu với thứ bậc rõ ràng trong đó những người có học đỗ đạt thường được ngồi ở vị trí trang trọng nhất, hơn cả bậc kỳ lão và quan tước. Hương ước xã Đan Tràng (Nghi Xuân) năm Khải Đinh thứ 9 (1924), được bổ sung năm Bảo Đại thứ 8(1933) về ngôi thứ lệ ăn uống tại làng phân định thông qua việc quy định như: Văn từ thất phẩm trở lên; các ấm sinh, giám sinh, tú tài xuất thân, võ suất đội trưởng trở lên; cử nhân khoa trường văn võ trở lên, đều được phân ngôi ở hai bên phải trái gian chính giữa trong đình (gian long trọng nhất ở đình, trên cả) các bậc kỳ lão tuổi 70 trở lên và đội trưởng thất phẩm, văn bát cữu phẩm, thiên, bá hộ, chánh tổng, ấm sinh, giám sinh, tú tài, viên tử bát cửu phẩm và thiên, bá hộ nạp quyên được miễn sai dịch, đều được ngồi ở gian bên trái. Lý trưởng xã dân đều được ngồi ở gian bên phải”[23]. Hương ước thôn Ngọc Sơn, tổng Trung Lương (nay thuộc thị xã Hồng Lĩnh) năm Bảo Đại thứ 4 (1929), bổ sung năm Bảo Đại thứ 6 (1931) quy định: “Thứ tự chỗ ngồi trong hương thôn: các vị khoa mục, được ban sắc văn, cấp bằng (do tỉnh cấp), các vị tuổi cao (từ 60 đến 90) gồm ba mâm. Các viên tư văn, quý viên, lấy tuổi tác mà nhượng nhau. Ai làm trai định lệ phạt.”[24]Điều lệ xã Hiệu Thuận, tổng Hà Trung, huyện Kỳ Anh, năm Tự Đức thứ 32 (1879) quy định: “Lễ tế xong, thủ lợn đem kính biếu bên văn hạng khoa trường, bên võ được ngạch biểu vua ban. Nếu không có những chức sắc như vậy thì tùy theo các bậc tôn trưởng trong xã mà biếu.”[25] Điều lễ xã Hiệu Thuận, tổng Hà Trung, huyện Kỳ Anh năm Tự Đức thứ 32 (1789) quy định: “Trong đình, khi ca xướng và táng tế thì chỗ ngôi phân thành ba hàng. Thứ nhất: Kho mục, chức sắc, hào cựu, chính lý trưởng, người được cấp bằng đội trưởng, hoặc hội sở của bản xã”.[26]Hương ước xã Phù Lưu Thượng (nay là xã Hồng Lộc, huyện Lộc Hà) năm Tự Đức thứ 7 (1854) cung quy đinh ưu tiên những viên khoa trường, viên thí khóa sinh được ngồi ở vị trí trung tâm của đình đền.[27] Hương ước thôn Xuân Trì (nay thuộc xã An Hòa Thịnh, huyện Hương Sơn) quy định chỗ ngồi trong miếu đinh: “Gian chính giữa, bệ thứ nhất, là các viên đỗ đại khoa, phó bảng hoặc quan văn võ từ tứ phẩm trở lên được ngồi trên. Nếu không có người như trên, thì người đỗ cử nhân, văn khoa và người thuộc văn võ chính đồ có phẩm hàm ngũ, lục, thất, bát phẩm hoặc là quan võ có phẩm hàm lục phẩm được ngồi. Bệ thứ hai: các viên là tú tài, cống sinh, cử nhân võ khoa chính đồ, khoa văn có hàm cửu phẩm và những người có hàm cửu phẩm trở lên, ấm sinh dụng tử, cùng những viên được bầu làm trưởng lão, trùm trưởng cùng ngồi.”[28]
Trong khi thực hành nghi lễ trong đình miếu cũng ưu tiên người có học đứng ra hành lễ từ trên cao xuống thấp để tỏ rõ sự tôn kính đối với thần linh. Hương ước thôn Xuân Trì (nay thuộc xã An Hòa Thịnh, huyện Hương Sơn) quy định: “Các viên trong xã xếp thứ tự từ trên xuống dưới. Đứng đầu là các vị đỗ đại khoa và các vị ấm quan văn võ trở lên. Thứ đến là các vị phó bảng, quan văn chính đồ hàm ngũ tứ phẩm, võ quan hàm tứ phẩm. Thứ nữa là các vị cử nhân và qua văn chính đồ hàm bát phẩm trở lên, võ quan hàm ngũ lục phẩm. Lại thứ nữa là các vị cống sinh, tú tài, cử nhân võ, quan văn chính đồ hàm cửu phẩm, võ quan hàm thất phẩm. Tiếp theo là các chức văn võ thấp hơn tùy nghi sắp xếp.
Việc bổ nhiệm chọn bầu các chức sắc, chức dịch tiêu chuẩn trước tiên là những người có học thể hiện coi trong nền trí trị trong công đồng làng xã ở Hà Tĩnh dưới thời phong kiến. Hương ước phường Giang Phái, thôn Vân Tản, huyện Cẩm Xuyên, phủ Thạch Hà, năm Bảo Đại thứ 13 (1938) quy định: “Về khoản bầu lý trưởng. Lý trưởng là tai mắt của dân, người được bầu phải là người có sơ học văn bằng, tiểu học yếu lược, hoặc khóa sinh triều cũ và những người trước đây được cấp bằng thập trưởng, ngũ trưởng, ngũ hương, kiểm đốc, không can phạm và những tịch đinh xưa nay lương thiện, được dân chứng nhận cũng được bầu.”[29]Điều lệ xã Hiệu Thuận, tổng Hà Trung, huyện Kỳ Anh năm Tự Đức thứ 32 (1879) quy định tiêu chuẩn đầu tiền là người có học: “Việc chọn người cai xã. Phải chọn người khoa mục, tuổi lớn làm việc đó.”[30]
Trong ca dao tục ngữ ở Hà Tĩnh người có học biết chữ là tiêu chuẩn quan trọng để lấy chồng của những người phụ nữ trong xã hội cũ.
Lấy chồng biết chữ là tiên
Lấy chồng mù chữ là duyên con bò[31]
Hay:
Chùa rách mà có bụt vàng
Bà góa bên đàng có rể trạng nguyên.[32]
Hay:
Nhà em có chỉnh vàng đầy
Không bằng bụng chữ anh đây đi đường
Học hành cũng là mục đích đầu tiên của nhiều người:
Chẳng tham vạn khoảnh lương điền
Tham về cái bút cái nghiên học trò.[33]
Và người ta có thể bỏ đi tất cả để phấn đấu học hành đỗ đạt:
Anh về đi học văn bài
Cử nhân là phận, tú tài là duyên.[34]
Việc học hành không thể thành đạt nếu không có thầy dạy dỗ, đề cao tinh thần “tôn sư trọng đạo”:
Muốn vui thì bắc cầu Kiều
Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy[35]
Việc học hành là việc trước tiên cần phải làm và việc đầu tư cho con học hành là việc đương nhiên:
Muốn sang thì bắc cầu dâu
Muốn con hay chữ mua dầu học khuya
Tóm lại, giáo dục khoa cử Nho học ở Hà Tĩnh có tự lâu đời. Việc phản ánh qua folklore cho thấy truyền thống đó đã in đậm trong đời sống của người dân Hà Tĩnh qua bao thế hệ. Đây là nguồn tư liệu quý, một kênh thông tin quan trọng, đáng tin cậy cùng với nhiều nguồn tư liệu khác giúp nghiên cứu toàn diện, đa chiều góp phần vào việc cũng cố, gìn giữ và phát huy truyền thống đó trong thời đại ngày nay và mai sau./.
[1]. Thái Kim Đỉnh (2004), Các nhà khoa bảng Hà Tĩnh, Hội Liên hiệp VHNT Hà Tĩnh, tr.35-36.
[2]. UBND huyện Nghi Xuân (2019), Địa chí huyện Nghi Xuân, Nxb Đại học Vinh, Nghệ An, tr. 394.
[3] Thái Kim Đỉnh (2004), Các nhà khoa bảng Hà Tĩnh, sđd, tr. 202.224.
[4]. Bảo tàng tỉnh Hà Tĩnh (2017), Văn bia Hà Tĩnh, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.81-82
[5]. Võ Hồng Huy (Chủ biên, (2013), Địa chí huyện Can Lộc, Nxb Nghệ An, tr.144.
[6]. Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương (Sưu tầm) (1996), Hương ước Hà Tĩnh, Sở VH-TT Hà Tĩnh, tr.103.
[7]. Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương (Sưu tầm) (1996), Hương ước Hà Tĩnh, sđd tr.105.
[8]. Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương (Sưu tầm) (1996), Hương ước Hà Tĩnh, sđd tr.14.
[9] Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương (Sưu tầm) (1996), Hương ước Hà Tĩnh, sđd tr.47.
[10] Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương (Sưu tầm) (1996), Hương ước Hà Tĩnh, sđd tr.46.
[11] Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương (Sưu tầm) (1996), Hương ước Hà Tĩnh, sđd, tr.74.
[12] Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương (Sưu tầm) (1996), Hương ước Hà Tĩnh, sđd, tr.74.
[13] Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương (Sưu tầm) (1996), Hương ước Hà Tĩnh, sđd, tr.179.
[14] Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương (Sưu tầm) (1996), Hương ước Hà Tĩnh, sđd, tr.146.
[15]Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương (Sưu tầm) (1996), Hương ước Hà Tĩnh, sđd, tr.49.
[16] Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương (Sưu tầm) (1996), Hương ước Hà Tĩnh, sđd, tr.48.
[17] Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương (Sưu tầm) (1996), Hương ước Hà Tĩnh, sđd, tr.190.
[18] Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương (Sưu tầm) (1996), Hương ước Hà Tĩnh, sđd, tr.133.
[19] Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương (Sưu tầm) (1996), Hương ước Hà Tĩnh, sđd, tr.45,46.
[20] Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương (Sưu tầm) (1996), Hương ước Hà Tĩnh, sđd, tr.43.
[21] Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương (Sưu tầm) (1996), Hương ước Hà Tĩnh, sđd, tr.132.
[22] Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương (Sưu tầm) (1996), Hương ước Hà Tĩnh, sđd, tr.177.
[23] Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương (Sưu tầm) (1996), Hương ước Hà Tĩnh, sđd, tr.111,112.
[24] Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương (Sưu tầm) (1996), Hương ước Hà Tĩnh, sđd, tr.137.
[25] Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương (Sưu tầm) (1996), Hương ước Hà Tĩnh, sđd, tr.83.
[26] Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương (Sưu tầm) (1996), Hương ước Hà Tĩnh, sđd, tr.84.
[27] Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương (Sưu tầm) (1996), Hương ước Hà Tĩnh, sđd, tr.56.
[28] Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương (Sưu tầm) (1996), Hương ước Hà Tĩnh, sđd, tr.78.
[29] Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương (Sưu tầm) (1996), Hương ước Hà Tĩnh, sđd, tr.171
[30] Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương (Sưu tầm) (1996), Hương ước Hà Tĩnh, sđd, tr.82.
[31] Bùi Thiết (2020), Địa chí huyện Cẩm Xuyên, Nxb Đại học Vinh, Nghệ An, tr.354
[32] Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Ngọc Lập (2016), Ca dao, dân ca xứ Nghệ, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, tr.443
[33] Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Ngọc Lập (2016), Ca dao, dân ca xứ Nghệ, sđd, tr.442.
[34] Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Ngọc Lập (2016), Ca dao, dân ca xứ Nghệ, sđd, tr.439.
[35] Bùi Thiết (2020), Địa chí huyện Cẩm Xuyên, sđd, tr.403.