Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh là loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian chiếm vị trí quan trọng trong đời sống văn hoá của người dân Nghệ - Tĩnh. Ngày 27/11/2014, tại kỳ họp thứ 9, diễn ra tại Paris – thủ đô Cộng hòa Pháp, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO) đã công nhận Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Trong đó, Hát Ví phường nón Tiên Điền là một loại hình khá đặc sắc nằm trong kho tàng Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh. Tuy nhiên, loại hình này đã mai một, cần bảo lưu và phát huy trong đời sống đương đại. Ở bài viết này, tôi đi sâu vào tìm hiểu việc phát huy giá trị loại hình Hát Ví phường nón Tiên Điền trong phát triển du lịch.

Cổng làng văn hóa Tiên Điền
1. Lịch sử làng Tiên Điền và nghề làm nón ở Tiên Điền
Căn cứ vào nhiều nguồn tài liệu cho thấy, làng Tiên Điền đã có lịch sử lâu đời. Các sách như Nghi Xuân địa chí, Nghi Xuân huyện thống chí, đều cho là làng này có thể có từ đời Lý - Trần. “Một vài cuộc khai quật ở địa phương đã tìm ra được những đồng tiền niên hiệu Thuận Thiên (đời Lý) và những bát gốm mang hoa văn đời Lý. Giáo sư sử học, nhà khảo cổ học Hà Văn Tấn trong những lần về thăm Tiên Điền cũng xác định có nhiều đồ gốm thời Lý ở những làng này” [1]. Thêm nữa, làng Tiên Điền cũng thờ vị thần có công khai phá và bảo vệ trị an nhiều làng ở Xứ Nghệ vào thế kỷ XI. Đó là Lý Nhật Quang, con thứ tám của Lý Thái Tổ, làm quan ở đạo Nghệ An, có ân đức, chính trị ngay thẳng, có tiếng trong triều.
Còn nghề làm nón có từ bao giờ? Theo các cụ cao niên thì nghề làm nón có từ rất lâu đời ở làng Tiên Điền. “Nón lá được sản xuất ở Tiên Điền (4 thôn: Báu Kệ, Lương Năng, Văn Trường và Võ Phấn” [2].
Người làm nón phải thực hiện nhiều công đoạn từ lên rừng hái lá, chọn lá, rửa lá, là lá; chẻ tre, vót mây; chọn khung, uốn vành, lợp lá, chằm, cắt lá, nức vành, cắt chỉ… đến bước cuối cùng là đánh bóng bảo quản.
Nguyên liệu chính của nghề làm nón, gồm: Lá nón; sợi cước; vỏ măng tre bầu; tre, nứa làm khuôn. Theo tư liệu cho biết, vùng Tiên Điền ở giữa đồng bằng nhưng dân ở đây quen vào núi Hồng Lĩnh lấy lá nón về làm nón để sinh nhai. Lá nón, vỏ măng tre bầu được phơi khô dưới nắng qua xử lý kỹ thuật để lá nón trắng, phẳng; vỏ măng tre bầu khô, không bị rách. Tất cả được là ép một cách cẩn thận. Số lượng của vành nón được làm theo sự qui định sẵn trên khuôn nón. Sau khi đã chuẩn bị đủ các điều kiện trên thì người thợ thực hiện các chi tiết và tiến hành các khâu kỹ thuật tiếp theo của việc may nón. Nón được làm ba lớp, lớp trong cùng là lá nón, lớp thứ hai lá măng tre bầu, lớp ngoài cùng lá nón.
Làm nón đã trở thành nghề của cả thôn. Hằng năm, ở Tiên Điền vẫn có tục cúng giỗ những người làm nón bị nạn khi đi chợ bán nón bị lật đò:
“Hăm mốt tế tông
Hăm hai tế tổ
Hăm ba giỗ làng Tiền”…
Nghề làm nón được làm trong mọi điều kiện của thời tiết. Sản phẩm nón Tiên Điền được mang đi bán tại các chợ trong tỉnh và ngoài tỉnh, đặc biệt là chợ Vinh. Nghề phát triển mạnh và minh chứng cho điều đó là sự ra đời và phát triển của tổ chức phường nón. Đây là tổ chức khá chặt chẽ, gắn kết quyền lợi và trách nhiệm của các thành viên. Phường nón đã đề ra các quy định cụ thể về kỹ thuật, nguyên liệu, giá cả, trách nhiệm của hội viên đối với phường. Phường nón Tiên Điền vừa phản ánh rõ nét tính chất phường hội thủ công lại vừa mang tính chất của tổ chức thương nghiệp “buôn có bạn, bán có phường”. Phường có trách nhiệm chung trước các thành viên. Người trùm phường có uy quyền dường như tuyệt đối trong phường. Tất cả các thành viên trong phường đều phải tuân thủ mọi yêu cầu của trùm phường. Con cái của các thành viên khi dựng vợ, gả chồng trước khi cheo làng phải nộp lễ và xin ý kiến của trùm phường. Hằng năm, người được kết nạp vào phường phải đóng một số tiền quỹ và một thúng gạo để sử dụng lúc đói kém, khó khăn trong sản xuất, buôn bán… Số công quỹ của phường vừa để sử dụng vào việc tế lễ, trợ cấp cho những thành viên đau ốm, khó khăn hoặc gặp việc tang ma, hiếu, hỉ…
2. Hát Ví phường nón Tiên Điền
Bên cạnh là tổ chức nghề nghiệp, phường nón cũng là nơi tụ họp của các hoạt động văn hóa cộng đồng, ca hát, lễ hội. Trong làng xã Nghệ Tĩnh nói chung, làng Tiên Điền nói riêng, ngày trước có nhiều phường hát cùng tồn tại theo từng không gian, thời gian sinh hoạt và lao động sản xuất, họ sử dụng rất nhiều làn điệu trong sinh hoạt diễn xướng văn nghệ của phường, nhưng có lẽ làn điệu được các nghệ nhân phường nón hay dùng nhất vẫn là hát ví.
Hát Ví phường nón Tiên Điền ra đời và đã trở thành một hình thức sinh hoạt văn nghệ dân gian, diễn xướng dân gian vô cùng đặc sắc của cư dân nơi đây, kể cả những người ở trong hay ở ngoài phường nón:
Trước thăm nghề làm nón
Sau gặp bạn, gặp phường
Ví, Giặm tìm người thương
Ta chung phường làm nón,
Bạn với phường làm nón.
“Thông thường được tổ chức vào buổi tối bên ánh đèn hay dưới ánh trăng hay trong sân vườn nhà. Người thợ làm nón lấy việc ca hát để quên đi vất vả mệt nhọc, để thể hiện tâm tình lứa đôi, tình yêu quê hương đất nước... Khi thì họ vừa làm vừa hát một mình; khi thì hát với những người trong nhà hoặc rộng hơn là trong phường làm nón với nhau. Thỉnh thoảng có trai các làng khác đến hát đối đáp, giao duyên”[3].
Hát Ví phường nón lúc đầu diễn ra trong nhà - ngoài ngõ hoặc một khoảng sân của một nhà nào đó. Công cụ sinh hoạt: Bên nữ vừa làm nón vừa hát. Bên nam là khách đến chơi, đứng hoặc ngồi hát; nhưng nếu là trong cùng một phường thì có thể vừa vót tre, chẻ mây, vừa hát. Phường nón cũng sẵn sàng hát đối đáp với các phường khác như phường săn, phường củi, phường vải…
Nghệ thuật hát ví ngày càng được quy định chặt chẽ hơn. Thủ tục hát ví được quy định làm ba chặng – chặng thứ nhất là hát dạo, hát chào, hát mừng và hát hỏi; chặng thứ hai là hát đố và hát đối; chặng thứ ba là hát mời và hát xe kết. “Ví dụ đây là là câu hát dạo đầu, hát mời chào của một chàng trai trong phường nón:
Hỡi là người ơi… mấy khi nam nữ ngồi kề
Để nam ví đôi bận để nữ đề vài câu…
Tiếp đấy sẽ là lời hát “chặng đầu”, “mời chào” của phái nữ:
Hỡi là người ơi… bạn đến mời bạn vào nhà
Nước chè ngon đây mời bạn uống, chiếu hoa đây mời bạn ngồi…
Sau đấy là các “chặng” nối tiếp, nam, nữ trong phường sẽ vừa hát vừa thi thố tài năng ứng khẩu…” [4].
Hiện nay, nghề làm tơi nón ở Tiên Điền đã mai một, nhưng người dân vẫn luôn nhắc đến “Ví phường nón” một loại hình sinh hoạt văn hoá truyền thống, nay đang dần được phục hồi góp phần nâng cao đời sống văn hoá tinh thần của người dân:
(Ví nam )
Ơ là mấy chị mấy em làng nón đó ơi
Chớ trăng thanh răng nỏ dạo chơi
Cứ ngồi đâm lên rồi chọc xuống
Nón với tơi nhọc lòng đó
Ví (tốp nam)
Mấy khi được hội trăng trong
Ra đây đàn hát kẻo uổng công bạn mồi
Ví (nữ)
Tiếng ai văng vẳng nơi mô
Phải người bựa trước, mời vô trong nhà
(Tốp nữ)
Sợ là sợ mẹ sợ cha
Công sinh thành dưỡng dục
Rồi hóa ra công dã tràng
Thấy người ta cha mẹ đình hoàng
Sợ con cái đua đòi rồi sai duyên lỡ phận
Để sai đường rồi lạc phận
(Nam)
Chữ ân tình có dường chi dễ dãi
Chớ có ngại tục ngần phong
Nhớ câu gái lịch trai thanh
Điều ước mong là trai trung gái hạnh
Ước gặp người tiết hạnh
4. Đại thi hào Nguyễn Du với Hát Ví phường nón Tiên Điền
Dân ca Ví, Giặm ở mọi nơi đều là nguồn cảm hứng của văn nghệ sĩ (xưa cũng như nay), nhưng có lẽ chỉ Hát Ví phường nón ở Tiên Điền là được tiếp nhận sáng tác của một Đại thi hào. Hát Ví phường Vải được một bài của Nguyễn Huy Quýnh (20 câu) và nhiều câu nghe truyền là của Đinh Nhật Thận, Nguyễn Công Trứ, Phan Bội Châu. Một số bài ca Huế có thông tin là của Mai Am hay của Tự Đức (còn phải xác minh), nhưng riêng Hát Ví phường Nón thì được Nguyễn Du dành cho đến 34 câu đằm thắm. Có những câu rất thắm thiết, chất chứa nỗi niềm tâm sự:
“Hồng Sơn cao nhất mấy trùng,
Đò Cài mấy trượng thì lòng bấy nhiêu.”
Nguyễn Du phải là một người tài ba và hiểu biết sâu sắc nghề làm nón mới lại chen vào được trong bài thơ những từ nghề nghiệp lịp tơi, bó vọt, đống sườn, bẹ móc, nắm dang … đúng với ngôn ngữ và tâm trạng của những trai phường nón trong các cuộc đối đáp giao duyên Hát Ví phường nón:
“Quê nhà nắng sớm mưa mai,
Đã buồn giở đến lịp tơi càng buồn.
Thờ ơ bó vọt, đống sườn,
Đã nhàm bẹ móc, lại hờn nắm dang.
Rồi có cả những nổi lòng dào dạt:
Thẫn thờ gối chiếc màn suông
Rối lòng như sợi ai guồng cho xong”
Thời gian Nguyễn Du về lại Tiên Điền (1796-1802), thường cùng các anh bạn văn nho hòa mình trong những câu hò, điệu ví cùng các cô gái phường nón và các cô gái đều quen biết Nguyễn. Có lần đi hát phường nón trong làng, Hầu (tên danh xưng Nguyễn Du) gặp cô gái tên Cúc rất đẹp, giọng lại hay, nhưng đã quá thì mà vẫn chưa có chồng. Lần ấy, Hầu đóng vai người “gà” chuyện, một người con trai ví ghẹo:
“Trăm hoa đua nở mùa xuân
Cớ sao Cúc lại muộn mằn về thu?”
“Hầu gà” cho cô gái hát đáp lại:
“Vì chưng tham chút nhụy vàng
Cho nên Cúc phải dềnh dàng về thu”
Sau này, khi làm quan trong kinh được về quê, Đại thi hào Nguyễn Du gặp o Tuyết, người đã cùng mình hát ví trước kia đang dắt trâu bên đường. Cô ta nhìn Hầu, mỉm cười, rồi khe khẽ hát:
“Cái tình là cái chi chi
Anh làm Tham tri em cũng biết rồi.
Cõi phù sinh được mấy anh ơi…”
Biết o Tuyết có ý chê trách mình ra làm quan với nhà Nguyễn, ông mỉm cười nhìn cô gái rồi rảo bước.
Hát ví còn là sự giao thoa giữa vùng này với vùng khác, Nguyễn Du là một trong những người đã từng mang Hát Ví phường nón Tiên Điền vào tận Trường Lưu (Can Lộc) để hát thi đối đáp, giao duyên, tạo nên những mối tình quyến luyến giữa trai gái các làng:
Chàng về để áo lại đây
Phòng khi em nhớ, cầm tay đỡ buồn
Hát Ví phường nón là loại hình dân ca quen thuộc còn lưu truyền những câu chuyện liên quan đến Nguyễn Du và Truyện Kiều - Truyện Kiều cũng là một trường ca Hát Ví - Hát Ví cũng thường được mượn Truyện Kiều. Việc sử dụng những câu Kiều để làm câu hát đối đáp trong Dân ca Ví, Giặm khá phong phú, phổ biến trong các tầng lớp Nhân dân, đặc biệt là các nhà nho:
Truyện Kiều anh đã thuộc lòng
Đố anh kể được một dòng toàn nho?
Hay:
Truyện Kiều anh đã thuộc làu
Đố anh kể được một câu hết Kiều?
4. Mối quan hệ giữa Hát Ví phường nón Tiên Điền và Hát ví phường vải Trường Lưu
Hát Ví phường nón Tiên Điền và Hát Ví phường vải Trường Lưu có những nét tương đồng và khác biệt nhau. Về nét tương đồng, chúng ta thấy rằng không gian diễn xướng của Hát Ví phường nón Tiên Điền cũng giống như Hát Ví phường vải ở Trường Lưu. Đó là vào những buổi tối bên ánh đèn hay dưới ánh trăng, họ lấy việc hát ca vừa để quên đi vất vả mệt nhọc, vừa thể hiện tâm tình đôi lứa hay tình yêu quê hương đất nước, họ có thể vừa làm vừa hát một mình, hát với những người trong nhà hoặc rộng hơn là trong phường với nhau. Họ cũng sẵn sàng hát giao duyên, đối đáp với các phường khác trong làng cũng như ở các địa phương khác.
Về nghệ thuật âm nhạc: Từ tiết tấu, cấu trúc làn điệu, giai điệu đến nghệ thuật sử dụng ca từ của Hát Ví phường nón giống như Hát ví phường vải. Hát Ví phường nón cũng như Hát Ví phường vải, từ chỗ vừa làm vừa hát, về sau nghệ thuật hát ví đã đi vào thể thức, lề lối và bài bản ngày càng được quy định chặt chẽ hơn. Thông thường, những cuộc hát ví có tổ chức phường hội được quy định làm 3 chặng 7 bước, tuy nhiên cũng có khi 4 chặng 9 bước.
Bên cạnh những nét tương đồng thì Hát Ví phường vải Trường Lưu có sự khác biệt với Hát Ví phường nón Tiên Điền. Các O phường vải hầu hết là con nhà giàu, nhà nho, có học… Đồng thời, Hát Ví phường vải Trường Lưu có sự tham dự của các nhà nho như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Huy Tự, Phan Bội Châu và đã để lại nhiều giai thoại. Người cất giọng hát; người đỡ giọng (có thể là một, hai hay ba người); thầy bày, hay còn gọi là thầy gà và thính giả tự nguyện. Tham gia hát ví họ thường làm “thầy bày”, “thầy gà” cho bên nam hoặc bên nữ. Còn Hát ví phường nón Tiên Điền hầu hết là gắn với người dân lao động, buôn bán nên mang tính chân chất…
5. Một số giải pháp nhằm phát huy giá trị Hát Ví phường Nón Tiên Điền trong phát triển du lịch
Nhằm phát huy giá trị Hát Ví phường Nón Tiên Điền trong phát triển du lịch, tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp sau:
Thứ nhất, cần khôi phục làng nghề làm nón để sản xuất sản phẩm lưu niệm bán cho du khách đến tham quan đất văn vật Tiên Điền, khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du - di tích Quốc gia đặc biệt. Đồng thời, đây cũng là góp phần khôi phục không gian diễn xướng của hình thức Hát Ví phường nón Tiên Điền.
Thứ hai, duy trì và phát triển câu lạc bộ Dân ca Ví, Giặm Tiên Điền với nhiều hình thức khác nhau, trong đó chú trọng hình thức Hát Ví phường Nón. Cụ thể, đẩy mạnh vai trò của cấp ủy Đảng, chính quyền trong việc lãnh đạo, chỉ đạo để đẩy mạnh hoạt động của câu lạc bộ. Lồng ghép tổ chức các sinh hoạt ở cơ sở về Dân ca Ví, Giặm thông qua hội nghị của thôn. Tiến hành kiện toàn quy chế hoạt động của câu lạc bộ. Phát huy vai trò của Ban chủ nhiệm câu lạc bộ. Nâng cao chất lượng sinh hoạt các câu lạc bộ nhằm thu hút đông đảo thành phần tham gia. Kịp thời khen thưởng động viên các nghệ nhân có nhiều cống hiến trong vệc bảo tồn và phát huy giá trị di sản Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh. Khôi phục các làn điệu cổ cũng như khuyến khích viết lời mới phù hợp với đời sống đương đại hiện nay. Huy động các nguồn lực, nguồn xã hội hoá để câu lạc bộ duy trì và hoạt động hiệu quả…
Đặc biệt, xây dựng 01 không gian riêng để trình diễn diễn xướng phường Nón thành 01 địa chỉ trong hành trình tham quan của du khách khi đến với vùng Tiên Điền. Tuyển chọn các nghệ nhân hát tốt, hát live về Dân ca Ví, Giặm với không gian phường Nón.
Thứ ba, kết nối xây dựng chương trình du lịch có kết hợp đưa Hát ví phường Nón trong tuyến du lịch Tiên Điền – Lai Thạch, theo con đường Nguyễn Du đã từng Tiên Điền đi sang Trường Lưu. Du khách có thể trải nghiệm tham quan và nghe hát phường Nón trực tiếp tại khu di tích quốc gia đặc biệt Đại thi hào Nguyễn Du. Sau đó, du khách có thể tham quan một số di tích lịch sử - văn hóa được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh trên địa bàn Tiên Điền như nhà thờ họ Hà - An Mỹ; Đền Thành hoàng làng Đông; nhà thờ Trần Duy Đổng; nhà thờ Đặng Sĩ Vinh; Đền thờ và Mộ Đặng Thái Bàng; nhà thờ và mộ Đặng Sỹ Hàn…
Thứ tư, tăng cường truyền thông đại chúng và sử dụng công nghệ số. Trong thời đại công nghệ số phát triển, việc ứng dụng các nền tảng mạng xã hội như YouTube, Facebook, Zalo, Instagram và TikTok vào truyền bá Dân ca Ví, Giặm nói chung và Hát Ví phường nón nói riêng là một hướng đi đầy tiềm năng. Các nền tảng này có lượng người dùng lớn, đặc biệt là giới trẻ, tạo điều kiện thuận lợi để lan tỏa các giá trị văn hóa dân tộc theo cách gần gũi và dễ tiếp cận. Để phát huy hiệu quả, cần đầu tư kỹ lưỡng vào sản xuất nội dung video biểu diễn, tư liệu về Dân ca Ví Giặm, và các cuộc phỏng vấn cùng những nghệ nhân có kinh nghiệm. Những nội dung này nên kết hợp yếu tố giải trí và giáo dục, tạo sức hút và giúp người xem không chỉ thưởng thức mà còn hiểu sâu hơn về nguồn gốc, giá trị và ý nghĩa của di sản văn hóa này.
Thứ năm, đưa Dân ca Ví, Giặm nói chung cũng như Hát Ví phường nón nói riêng vào chương trình giảng dạy. Để Dân ca Ví, Giặm (trong đó có Hát Ví phường nón) được truyền tải một cách hệ thống và dễ tiếp thu, cần phát triển giáo trình giảng dạy phù hợp với từng cấp học. Giáo trình nên được thiết kế vừa đủ đơn giản cho học sinh tiểu học tiếp cận, vừa có nội dung nâng cao cho các em ở bậc trung học. Nội dung không chỉ bao gồm kiến thức lý thuyết như lịch sử, ý nghĩa và cấu trúc của Ví, Giặm cũng như Hát Ví phường nón, mà còn kèm theo các hoạt động thực hành, như hát Ví, Giặm, sáng tác lời mới dựa trên các làn điệu truyền thống. Tổ chức các chuyến tham quan đến làng nghề và vùng quê gắn với Dân ca Ví, Gặm để các em trải nghiệm không gian văn hóa thực tế. Việc đưa Dân ca Ví Dặm vào giáo dục trong trường học không chỉ giúp học sinh tiếp thu kiến thức văn hóa mà còn rèn luyện ý thức giữ gìn di sản. Khi các em hiểu rõ hơn về giá trị của Dân ca Ví Giặm, các em sẽ trở thành những người kế thừa và bảo tồn di sản văn hóa dân tộc, góp phần gìn giữ và phát triển một di sản quý báu trong bối cảnh hội nhập toàn cầu.
Thứ sáu, chú trọng phát triển Hát Ví phường nón Tiên Điền trong mối quan hệ với Hát Ví phường vải Trường Lưu. Du khách có thể giao lưu hai loại hình Dân ca Ví Giặm này trong hành trình khi về với mảnh đất Hà Tĩnh.
Thứ bảy, ngành chuyên môn tập trung định hướng, hướng dẫn giúp các câu lạc bộ đi vào hoạt động hiệu quả; tổ chức tập huấn, bồi dưỡng đội ngũ nghệ nhân; tạo ra sân chơi cho các câu lạc bộ (tổ chức Liên hoan, hội thi…). Cử cán bộ chuyên môn tổ chức điền dã về trực tiếp địa phương tiếp cận câu lạc bộ Dân ca Ví, Giặm, gặp gỡ những người cao tuổi để sưu tầm các làn điệu cổ của Hát Ví phường nón nói riêng cũng như các loại hình khác. Xây dựng và tái tạo thêm một số không gian diễn xướng Dân ca Ví, Giặm tại khu di tích quốc gia đặc biệt Đại thi hào Nguyễn Du theo đúng tinh thần của Nghị quyết số 18/NQ-TU ngày 22/12/2023 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về “Xây dựng, phát triển văn hóa và con người Hà Tĩnh trong giai đoạn mới”…
Tài liệu tham khảo:
[1] PTS Nguyễn Quốc Phẩm, Văn hóa làng Tiên Điền truyền thống và hiện đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 19.
[2] Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (2025), Võ Hồng Huy tác phẩm - Tập II: Danh sĩ Hồng Lam, Nxb Thế giới, Hà Nội, tr 272.
[3] Phan Thư Hiền, Dân ca Ví , Giặm Nghệ Tĩnh di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, Nxb Đại học Vinh, Nghệ An, tr 167.
[4] PGS.TS Nguyễn Quốc Phẩm, Tiên Điền Nguyễn Du địa linh nhân kiệt, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 61.