Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
“Hồng Lĩnh sơn cao
Song Ngư hải khoát
Nhược ngộ minh thời
Anh hùng tú phát”
(Núi Hồng Lĩnh xanh cao
Biển Song Ngư bát ngát
Gặp thời sáng vua hiền
Nhân tài đua nhau phát)
Nghi Xuân (Hà Tĩnh) là một vùng địa linh nhân kiệt, hội tụ đầy đủ những tinh hoa của núi Hồng sông Lam. Nhắc tới Nghi Xuân là nhắc tới vùng đất nổi danh với những dòng họ trâm anh thế phiệt, những nhà khoa bảng lỗi lạc đã làm rạng danh sông núi, như họ Nguyễn, họ Phan, họ Trần, họ Lê… Dòng họ Đặng ở làng Uy Viễn cũng là một dòng họ danh gia vọng tộc, nhiều đời học hành khoa bảng, văn thần võ tướng đều để lại tiếng thơm muôn đời về tấm gương trung quân ái quốc, lo mở mang bờ cõi, phát triển dân trí… góp phần xây dựng quê hương, đất nước phồn vinh.
Dòng họ Đặng còn được biết đến bởi mối quan hệ thân tình đặc biệt với dòng họ Nguyễn, nhân dân vùng này truyền tụng nhau câu nói: “Tiên Điền họ Nguyễn - Uy Viễn họ Đặng”. Đó là hai dòng họ lớn “môn đăng hộ đối” có nhiều người học rộng, đỗ đạt làm quan, kết thông gia với nhau từ lâu đời.
Vài nét về họ Đặng – Nghi Xuân
Theo cuốn “Phả tộc họ Đặng văn hiến Việt Nam”, họ Đặng Nghi Xuân là một bộ phận trong họ Đặng - Hồng Lam. Họ Đặng - Hồng Lam phát tích từ xã Chúc Sơn, huyện Chương Dương, phủ Ứng Thiên. Sau khi vua Trần Dụ Tông mất (1369), triều đình nhiễu loạn, Dương Nhật Lễ tiếm ngôi (1369-1370), quân Chiêm Thành tấn công kinh thành. Họ Đặng có một cuộc di dời lớn, đó là cuộc di dời về phía Nam của Đặng Bá Kiển, con trai thứ 5 của Hậu nghi lang thái sử cục lệnh Đặng Lộ. Đặng Bá Kiển đã cùng gia đình, người thân chọn vùng đất hoang sơ dưới chân núi phía Nam Hồng Lĩnh để sinh cơ lập nghiệp. Nơi ông dừng chân là thôn Tả Rạ (Động Rạng), xã Tả Thiên Lộc, huyện Phi Lộc (đời Lê Thánh Tông đổi là huyện Thiên Lộc), phủ Nghệ An và nay là xóm Tài Năng, xã Thiên Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
Cháu đời thứ 4 của Đặng Bá Kiển là Đại quốc công Đặng Tất, thời Trần ông giữ chức Hữu Châu Phán Hóa Châu; nhà Hồ lên thay (1400-1407) ông giữ chức Đại Tri Châu Hóa Châu. Cuộc kháng chiến của nhà Hồ chống nhà Minh thất bại, Đặng Tất mưu toan việc lớn, phục hồi lại nhà Trần. Nhưng đáng tiếc việc không thành, cái chết oan nghiệt của Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân do Trần Ngỗi gây nên đã dẫn tới việc con trai Đặng Tất là Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị (con trai của Nguyễn Cảnh Chân) và em trai Đặng Chủng, Đặng Liên, Đặng Thát, Đặng Thiết, Đặng Noãn đã đưa toàn bộ nghĩa quân từ Thuận Hóa rút về Nghệ An tôn Trần Quý Khoáng làm minh chủ - niên hiệu Trùng Quang. Đặng Dung được phong chức Đồng Binh chương sự (tương đương chức Tể tướng) và về sau để phát triển lực lượng chống quân Minh, thì Giản Định và Trùng Quang đã hợp quân lại và làm nên chiến thắng lẫy lừng. Năm 1373 quân Minh tấn công vào căn cứ cuối cùng của nhà Hậu Trần ở Hóa Châu, kháng cự không nổi, nghĩa quân đã bị tan rã, Trần Quý Khoáng và anh em họ Đặng (Đặng Dung, Đặng Thiết, Đặng Noãn) bị bắt. Năm 1414 trên đường thủy áp giải sang nhà Minh, Trần Quý Khoáng và Đặng Dung nhảy xuống sông tuẫn tiết. Vua Lê Thái Tổ đã đề hai câu đối “Quốc sĩ vô song, song quốc sĩ / Anh hùng bất nhị, nhị anh hùng ngợi ca về hai cha con Đặng Tất và Đặng Dung - hai người anh hùng, người trung nghĩa, vì nước xả thân, vì dân đánh giặc.
Em trai của Đặng Dung là Đặng Chủng (còn gọi là Chúng) tránh sự truy lung của quân Minh đã lui về ẩn dật ở vùng Hồng Lĩnh, đầu năm 1414 ông đã xuống núi chọn vùng đất U Điền (sau đổi thành Vô Điền, nay là Tiên Điền) làm chỗ đứng chân, vỡ ruộng khai hoang, dựng nhà dựng cửa, mở trường dạy học. Năm 1428, sau khi đánh tan quân xâm lược nhà Minh, đất nước thanh bình, Đặng Chủng được Bình Định vương Lê Lợi hạ chiếu vời Hàn Lâm Đặng Chủng về triều sung vào hàng Quan thị nội văn chức. Hàn Lâm Thị Giảng và mảnh đất Nghi Xuân là điểm hội tụ để họ Đặng xác lập được vị thế của mình trong số các dòng họ nổi tiếng ở vùng Nghi Xuân, Hà Tĩnh.
Họ Đặng là dòng họ hiếu học và khoa bảng với nhiều danh nhân hiền tài, thời nào cũng có những người con họ Đặng đóng góp cho đất nước, cho quê hương trên tất cả các lĩnh vực. Lịch sử nước nhà còn lưu danh dòng họ Đặng với những con người tài ba, uyên bác, hết lòng vì dân, vì nước, tiêu biểu là Đô ngự sử Đặng Sỹ Vinh (1685-1770) và Thái Bộc Tự khanh Đặng Thái Bàng (1689-1759).
Đô ngự sử Đặng Sỹ Vinh (1685 - 1770)
Đô ngự sử Đặng Sĩ Vinh, người làng Uy Viễn, xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, trấn Nghệ An (nay là tổ dân phố 3, thị trấn Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh). Ông sinh sống vào cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII. Theo sách “Nghi Xuân địa chí” của Lê Văn Diễn và gia phả gốc của dòng họ để lại, thì Đặng Sỹ Vinh sinh năm 1685, là con trai của Quận công Đặng Nhâm Ngôn, là cháu 10 đời của Quốc công Đặng Tất. Đồng thời, ông cũng là bố vợ của Tể tướng Nguyễn Nghiễm, tức là ông ngoại của tiến sĩ Nguyễn Khản, hương khoa Nguyễn Điều (theo phong tục cũng là ông ngoại Đại thi hào Nguyễn Du).
Đô ngự sử Đặng Sĩ Vinh là một người đức cao đạo trọng, đóng góp công lao to lớn với quê hương, đất nước . Vì vậy sau khi qua đời cụ được nhân dân làng Uy Viễn tôn làm phúc thần, lập đền thờ tại thôn Văn Liêu, làng Uy Viễn.
Cũng theo sách Nghi Xuân địa chí do nhà nho Lê Văn Diện viết vào năm 1842, đời Vua Thiệu Trị triều nhà Nguyễn, ông Đặng Sĩ Vinh ở xã Uy Viễn, sau khi được tuyển vào trường Quốc Tử Giám, thi đỗ khoa thi Hương mùa xuân, đỗ tiếp Tam trường. Năm 20 tuổi, ông thi Hương khoa Ất Dậu (1705) đậu ngay Cử nhân, năm sau năm Bính Tuất (1706), đậu tiếp Hoành từ (trên cấp thi Hương). Đây là khoa thi do triều đình mở trước kỳ thi Hội để chọn người học rộng tài cao giúp việc nhà vua. Tuy Hoành từ không phải là Tiến sĩ, nhưng do được yêu mến kính trọng nên ông đuợc nhân dân tôn gọi là quan Nghè như những người thì Hội chính thức đỗ Tiến sĩ (bởi thế xóm ông ở được gọi là xóm Quan Nghè hay xóm Làng Nghè, tồn tại mãi đến đầu thập kỷ 70 thế kỷ XX). Sau khi đỗ Hoành từ, ông được vua Lê Dụ Tông ban chiếu bổ dụng làm Nội thị văn chức, ba năm sau được cử làm Huấn đạo Trường Yên, năm Ất Mùi (1715) được sung Tả mạc Sơn Nam, năm Canh Tý (1720) được cử làm Tri huyện Đông Thành (nay là huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An), sáu năm sau, năm Bính Ngọ (1726), ông được thăng lên Tri phủ Thiệu Thiên, trông coi tám huyện ở trấn Thanh Hoa (tỉnh Thanh Hoá ngày nay) gồm Thụy Nguyên, Vĩnh Phúc, Đông Sơn, Lôi Dương, Yên Định, Cẩm Thuỷ, Thạch Thành và Quảng Bình. Khi làm tri phủ Thiệu Thiên, vì trình bày công việc với quan trên không hợp ý, ông Đặng Sĩ Vinh xin từ chức về quê ở làng Uy Viễn ẩn cư dạy học lấy cảnh non nước thơ phú, văn chương làm vui.
Tài nghệ, tiếng tăm văn chương, thơ phú của ông sánh cùng Đậu Minh Dương, được người đương thời tôn vinh “Nghệ An tứ hổ”. Trường ông dạy được nhân dân gọi là trường Quan Nghè, “Nghè Vinh”. Học sinh của trường mỗi ngày mỗi đông, nhiều học trò đậu đạt cao, trong số học trò của ông có người chiếm bảng vàng, được ghi tên vào bia đá trở thành người trụ cột của nước nhà. Nên trường Quan Nghè tiếng tăm lan truyền ra khắp vùng. Con rể ông là Đặng Thái Bàng đỗ Hoành từ, con trai là Đặng Hữu Học, Đặng Duy Phiên, cháu nội là Đặng Truyền Lâm, Đặng Thái Tri, cháu ngoại là Nguyễn Công Tấn… đỗ Cử nhân đều là học trò của ông.
Bên cạnh việc tổ chức dạy chữ, cụ còn mời một số nghệ nhân có tay nghề truyền thống dạy nghề cho con em trong vùng như: Nghề rèn, nghề mộc. Đặc biệt là nghề rèn. Sau này con cháu như Đặng Tố Nga, Đặng Duy Danh đã phát triển nghề rèn thành nghề đúc lưỡi cày, rèn dao, hái phục vụ nông nghiệp. Do vậy đã hình thành nghề rèn. Làng Tiên Điền có thời kỳ được gọi là làng “Nghề ông Nghè”.
Theo gia phả họ Đặng ở thị trấn Nghi Xuân, ông Đặng Sĩ Vinh còn có nhiều đóng góp xây dựng quê hương như phát triển văn hóa, mở mang kinh tế. Ông là người khởi xướng việc lập chợ Văn để nhân dân có nơi giao thương, buôn bán; sau này con rể ông là Nguyễn Nghiễm đổi tên chợ Giang Đình, chợ hiện nay đã được di dời ra sát quốc lộ 8B và vẫn là trung tâm buôn bán tấp nập của huyện. Ông đã cùng với các con rể là Nguyễn Nghiễm và Đặng Thái Bàng đứng ra quyên góp tiền bạc huy động nhân công mở rộng huyện lộ từ xã Thượng Thôn (nay là thị trấn Xuân An) đến huyện lỵ Nghi Xuân, rồi mở tiếp nối thông đến tận cửa biển Đan Nhai (nay là cửa Hội). Con đường này ngày nay là quốc lộ 8B đoạn đi qua huyện Nghi Xuân.
Gia phả cũng ghi việc ông Đặng Sĩ Vinh xây chùa chiền, mở đường, tu sửa và làm cầu cống như cầu Tiên ở xã Tiên Điền. Sự kiện Tể tướng Nguyễn Nghiễm cùng Hồng lô Thái bộc tự khanh Đặng Thái Bàng, Tri phủ Đặng Sĩ Vinh và con là Đặng Duy Phiên làm cầu được ghi chép trên bia cầu Tiên. Bia đá này đang được bảo tồn ở di tích đặc biệt quốc gia khu lưu niệm đại thi hào Nguyễn Du ở xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Năm Đinh Mão đời Lê Cảnh Hưng 1747, ông còn vận động nhân dân trong xã góp tiền góp công lập bến Giang Đình, đưa bến sông này thành một bến sông giao thương quan trọng và là một trong “Nghi Xuân bát cảnh” - Tám cảnh đẹp nhất của huyện Nghi Xuân ngày trước. Tại bến Giang Đình, ông đã cùng với Nguyễn Nghiễm thường cho mở hội Giang Đình tấp nập trên bến dưới thuyền hết sức đông vui, tạo nên nét đẹp văn hoá truyền thống của đất Nghi Xuân thuở trước.
Đặng Sỹ Vinh còn quan tâm đến tín ngưỡng của nhân dân cho lập một số đền chùa như chùa Diễn Quang, chùa Trường Ninh ngay tại trung tâm xã. Về sau con trai ông là cử nhân Đặng Duy Phiên cùng con rể là Hoành từ Đặng Thái Bàng đã cho trùng tu và đổi tên thành chùa Viên Quang Tự. Con rể tể tướng Nguyễn Nghiễm đề văn bia có câu ca tụng cảnh chùa:
“Không phải vàng bạc mà tráng lệ
Chẳng phải lâm truyền mà thanh u”
Tướng công Uy Viễn Nguyễn Công Trứ đã đúc chuông ở xóm đúc “làng Nghề” dâng tặng chùa. Trải qua nhiếu biến thiên dâu bể, nay chùa và chuông đều không còn. Để giúp dân thuận lợi trong việc quản lý làng xã, tri phủ cùng con rể Nguyễn Nghiễm xin triều đình tách thôn Uy Viễn khỏi xã Tiên Điền, thành lập một xã riêng, đó là xã Uy Viễn. Đến thời Nguyễn, huyện lỵ Nghi Xuân đóng tại xã Uy Viễn và cho đến nay vùng đất này vẫn là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa phồn vinh của huyện Nghi Xuân.
Tiếng thanh liêm, trung nghĩa lúc làm quan và công đức của Đặng Sỹ Vinh chẳng mấy chốc đến tai vua Lê – chúa Trịnh ở kinh đô Thăng Long. Năm Nhâm thân (1752) đời Lê Cảnh Hưng, ông lại được vua Lê, chúa Trịnh vời ra làm quan, phong làm Thừa chính sứ Lạng Sơn, tước Viễn trạch bá, tòng tam phẩm.
Sau ba năm trấn trị ở Lạng Sơn, năm Ất hợi (1755) ông được điều về kinh lên Ngự sử Đài đô ngự sở, tước Viễn trạch hầu, hàng Tòng nhị phẩm, chuyên việc thanh tra xem xét việc cai trị của các quan lại và đàn tấu lên vua Lê chúa Trịnh những việc phải trái của triều đình.
Năm Tân tị (1761), bước qua tuổi 75, ông dâng sớ lên vua Lê chúa Trịnh xin được nghỉ hưu. Vua Lê Hiển Tông và chúa Trịnh Doanh quý trọng tài năng đức độ của ông, muốn giữ lại nhưng thấy ông tuổi cao, sức yếu nên đồng ý cho về nghỉ, đồng thời gia phong Kim tử vinh lộc đại phu, Đô ngự sử.
Đặng Sỹ Vinh mất năm Canh dần (1770) tại quê nhà, hưởng thọ 85 tuổi. Sau khi ông mất được nhà vua ban sắc phong là Thượng đẳng thần, được lập đền thờ cho dân làng thờ tự và cấp ruộng điền, giao huyện xã hàng năm cúng tế.

Sự kiện Tể tướng Nguyễn Nghiễm cùng Hồng lô Thái bộc tự khanh Đặng Thái Bàng, Tri phủ Đặng Sĩ Vinh và con là Đặng Duy Phiên làm cầu được ghi chép trên bia cầu Tiên
Thái Bộc Tự khanh Đặng Thái Bàng (1689-1759)
Đặng Thái Bàng tên húy là Đặng Thái Phương, thụy là Uyên Túc, hiệu Mộ Trực tiên sinh, sinh năm Kỷ Tỵ (1689) tại xã Uy Viễn (nay là khối phố 3, thị trấn Nghi Xuân, huyện Nghi Xuân). Thưở nhỏ thông minh, học giỏi, thi đỗ Hương giải (cử nhân) năm 19 tuổi khoa Mậu Tý, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 4 (năm 1708). Năm 21 tuổi khoa Canh Dần (1710), niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 6, thi đỗ Hoành từ - chế khoa tuyển chọn nhân tài, được sung vào Thị nội văn chức trong triều. Năm 23 tuổi ông được bổ làm Tri huyện Anh Sơn (Nghệ An – 1712) và lần lượt làm quan ở phủ Chúa Trịnh, trấn Hải Dương, trấn Sơn Nam…. Năm Mậu Tuất (1718) lúc 28 tuổi được thăng Viên Ngoại lang bộ Lễ rồi Lang trung bộ Hình niên hiệu Bảo Thái thứ 5 – đời vua Lê Dụ Tông (năm 1724).
Năm Bính Ngọ (1726) thăng chức Trị Thị nội Tả công phiên và đến Tân Hợi (1731) thăng làm Hiến phó Sơn Nam, hàm Tam phẩm sau đó nhân có tang mẹ ông xin về quê chịu tang. Thời gian này ông đóng cửa không tiếp khách, không giao du, làm nhà sách trước cửa theo đuổi thơ văn trứ thuật, đặc biệt là nghiên cứu Kinh Dịch và biên soạn tác phẩm Chu Dịch quốc âm giải nghĩa.
Mãn tang mẹ, ông trở lại Vương phủ, được vua ban tên Thụ là Uyên Túc, giữ chức Thái bộc Tự khanh đứng đầu Tả Xuân phường và Tả Thứ tử, được phong tước Hầu là Hồng Trạch Hầu.
Đặng Thái Bàng mất ngày 18 tháng 9 năm Kỷ Mão (1759) tại quê nhà làng Uy Viễn, thọ 70 tuổi. Sau khi mất, nhà vua truy phong: Đạt đạo Đại vương, phong thần và cho lập đền thờ, cấp ruộng để tế lễ hằng năm.
Đặng Thái Bàng là người văn chương đức hạnh, sớm nổi tiếng là người có kiến thức uyên bác và giỏi thơ văn. Tiến sĩ Nguyễn Kiều (tức Nguyễn Hạo Nhiên – chồng nữ sĩ Đoàn Thị Điểm) đã viết trong lời tựa sách Chu Dịch quốc âm của Đặng Thái Bàng như sau: “Ông chuyên lấy việc ngâm vịnh làm vui, về nôm càng thảo, thường đem thơ từ của người xưa diễn Nôm, chứa chất đầy rương tủ…”
Sách Nghi Xuân địa chí của Lê Văn Diễn chép: “Đặng Thái Bàng là người anh khí lẫm liệt, đi như gió, nói như sấm. Đối với kẻ thân thích cũng không hề dung túng, thiên vị…”. Ông là người công minh chính trực, khi làm quan bộ Lễ, bộ Hình, được triều đình nể trọng và nhân dân yêu kính. Chúa An Đô vương Trịnh Cương từng biếu ông tấm gấm trắng và đềtặng 4 chữ: “Thành tín để nhân” (nghĩa là Con người thật đáng tin cậy).
Đặng Thái Bàng là nhà dịch học nổi tiếng với cống hiến lớn nhất và giá trị nhất là việc nghiên cứu, biên dịch cuốn Kinh Dịch của Trung Quốc ra quốc âm (chữ Nôm), ông đã để lại cho hậu thế tác phẩm “Chu Dịch quốc âm giải nghĩa” bằng chữ Nôm theo thể văn vần (song thất lục bát), được Thượng thư Khánh Trạch hầu Nguyễn Đình Đức giao cho Thị Trung học sĩ Phạm Quý Thích tổ chức cho khắc ván in sách lần đầu tiên vào năm 1815 (Gia Long thứ 14) lấy tên sách là “Chu Dịch quốc âm ca” với lời tựa:“Cuốn sách diễn giải tỏ tường, dễ hiểu, chuyển vần dễ nhớ, dễ thuộc, các bậc công khanh đại phu đều quý trọng”.
Hiện nay sách của Đặng Thái Bàng vẫn còn lưu ở Viện Hán Nôm, Thư viện Khoa học Xã hội và Thư viện Quốc gia. Nội dung sách có 3 Lời Tựa, của: - Tiến sĩ Nguyễn Kiều (Nguyễn Hạo Hiên) chồng nữ sĩ Đoàn Thị Điểm.- Tiến sĩ Vũ Khâm Lân. - Tiến sĩ Phạm Quý Thích.
Trong bản in lần đầu, “Chu Dịch quốc âm ca”, bao gồm 384 hào, 64 quẻ. Lời tựa của 3 nhà khoa bảng đều thán phục, đã ví ông ngang với Phùng Trai, Thiệu Tử, là những nhà Kinh Dịch nổi tiếng của Trung Quốc ngày trước.
“Âm chương cứu đạt Phùng Trai thiểu
Tạo hóa suy cùng Thiệu Tử đa”
Hai câu thơ này trích trong bài thơ Tiến sĩ Nguyễn Kiều - chồng nữ sĩ Đoàn Thị Điểm tặng tác giả “Chu Dịch quốc âm ca”, đã được hậu duệ Đặng Thái Bàng làm đôi câu đối đặt ở bái đường Đền thờ Đặng Đại Vương.
Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” của Nhà sử học Phan Huy Chú, cho biết: sách này gồm 2 quyền, và Nhà sử học đã trích 2 lời tựa của TS Nguyễn Kiều và TS Vũ Khâm Lân: “Trong 5 bộ sách Kinh điển (Ngũ Kinh) của Trung Quốc thì Kinh Dịch tinh vi, sâu sắc khó hiểu nhất. Đặng Thái Phương (tức Đặng Thái Bàng) đã biên dịch bộ sách đồ sộ đó thành bài ca quốc âm rõ ràng dễ hiểu. Đó là việc làm rất quý, cống hiến cho đời ...".
Toàn bộ văn bản cuốn Kinh Dịch của Đặng Thái Bàng đến nay đã được Nhà văn Bùi Hạnh Cần phiên âm và biên tập thành sách “Kinh Dịch phổ thông”, do Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin ấn hành lần đầu, năm 1997. Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin trong Lời nói đầu, đã viết: “Đây là một cuốn sách vừa có giá trị về triết học, vừa có giá trị về dư trắc học. Mong rằng cuốn sách sẽ làm phong phú thêm kiến thức của bạn đọc về nền triết học cổ phương Đông”. Nhà văn Bùi Hạnh Cần trong Lời nói đầu cũng đã vinh danh Đặng Thái Bàng là một Nhà Dịch học Việt Nam cuối thế kỷ 18.
Không chỉ là một nhà văn chương, nhà dịch học, Đặng Thái Bàng còn là một vị quan thanh liêm, tận tụy với dân với nước. Với tấm lòng thương dân sâu sắc, ông đã có nhiều đóng góp lớn lao cho quê hương, cho nhân dân trong vùng:
Ông là người đã cùng với Đô ngự sử Đặng Sỹ Vinh, Tể tướng Nguyễn Nghiễm lập ra chợ Văn để nhân dân có nơi giao thương, buôn bán; sau này Tể tướng Nguyễn Nghiễm đã đổi tên chợ thành chợ Giang Đình. Sách Nghi Xuân địa chí còn chép:
“Xuân thị Lê Chiêu Nga
Văn thị Hiến Sứ gia”
(Chợ Xuân bà chúa Chiêu Nghi
Chợ Văn ông Đặng Hiến phó)
Nhận thấy cây cầu gỗ nhỏ tại Tiên Điền nối từ Hồng Lĩnh với bên kia phía bắc là cả một huyện Nghi Xuân - nơi hội tụ của các dòng nước đổ về biển không thể đảm bảo an toàn cho nhân dân đi lại trong mùa mưa gió, ông đã cùng Tể tướng Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm, Tri phủ Đặng Sĩ Vinh và Đặng Duy Phiên tổ chức sửa chữa bắc cầu Tiên (Tiên Điền) làm cho giao thông huyện nhà được thông suốt, góp phần giúp dân làm ăn sinh sống. Sự kiện được ghi chép trên bia cầu Tiên (Tiên Kiều bi kí). Hiện bia đá này đang được bảo tồn ở di tích đặc biệt quốc gia khu lưu niệm đại thi hào Nguyễn Du ở xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Bên cạnh đó, ông cũng là người tổ chức xây dựng lại chùa Viên Quang ngay làng Uy Viễn. Tại khuôn viên Đền thờ Đặng Thái Bảng còn lưu giữ bia đá chùa này (Viên Quang tự bị ký), đã biến làng Uy Viễn và huyện lỵ thành một cảnh quan, một trung tâm văn hóa và chính trị của huyện. Nghi Xuân huyện thông chí, chép: “Khoảng năm Vĩnh Hựu (1735-1740) quan Đặng Hiến Phó đã tổ chức xây dựng lại chùa Viên Quang tại xã Uy Viễn trở nên một cảnh quan danh thắng”.
Mối lương duyên dặc biệt của dòng họ Đặng với dòng họ Nguyễn
Theo gia phả dòng họ Đặng, thì Đô ngự sử Đặng Sỹ Vinh có 5 người con gái thông minh, xinh đẹp, hội tụ tứ đức “công, dung, ngôn, hạnh” đều được kết duyên với những người có danh tiếng:
- Bà Đặng Thị Phương, người con gái cả là chính thất của Hoành từ Hồng Trạch hầu Thái bộc Tự khanh Đặng Thái Bàng;
- Bà Đặng Thị Dương (1713-1780) người con gái thứ hai là chính thất của Hoàng giáp Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm (1708-1775); sinh ra Nguyễn Khản (1734-1786) một tể tướng văn võ toàn tài thời bấy giờ.
- Người con gái thứ ba là bà Đặng Thị Tuyết cũng là kế thất của Nguyễn Nghiễm (1708-1775) sinh ra Nguyễn Điều (1745-1786) một vị quan nổi tiếng của triều đình.
Nguyễn Nghiễm cũng là thân phụ của Đại thi hào Nguyễn Du , một vị Tể tướng thời Hậu Lê, một người văn võ toàn tài, không chỉ đánh đông dẹp Bắc, ở đâu cũng lập chiến công, mà học vấn văn chương luôn làm người người ngưỡng mộ. Nguyễn Nghiễm đã được triều đình tiến phong Xuân quận công, được gia phong 4 chữ “Khoan – Hoà – Mẫn – Đạt” Thượng đẳng phúc thần.
- Người con gái thứ tư là Đặng Thị Tuy, vợ của cử nhân Đặng Tự Ban, người cùng xã;
- Người con gái út là bà Đặng Thị Thiệp lấy Hiệu sinh (Tú tài) Nguyễn Minh Huy, là mẹ của cử nhân Đức Ngạn hầu Nguyễn Công Tấn (? – 1800) và là bà nội của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ (1778-1858) - một vị quan nhiều công trạng và là một nhà nho tài tử nổi tiếng của Việt Nam.
Thái Bộc Tự khanh Đặng Thái Bàng là con rể của Đô ngự sử Đặng Sỹ Vinh, vợ ông là bà Đặng Thị Phương – cô con gái đầu của ông Đặng Sỹ Vinh. Năm cô con gái của Đặng Thái Bàng và bà Đặng Thị Phương lần lượt được gả cho La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp, Tri phủ Phan Huy Diễn, Thái nhạc quận công (không rõ tên), Tri phủ Tiên Hưng Nguyễn Công Tấn (bà Đặng Thị Tần) – thân phụ của Nguyễn Công Trứ và Tam giáp Tiến sĩ Nguyễn Khản.
Như vậy, Nguyễn Thiếp, Nguyễn Công Tấn (bố Nguyễn Công Trứ) và Nguyễn Khản (anh trai Đại thi hào Nguyễn Du) là bạn đồng hao, có bố vợ là Thái Bộc Tự khanh Đặng Thái Bàng, ông nội vợ (cũng là bố vợ Nguyễn Nghiễm) là Liêu quận công Đặng Sỹ Vinh.
Có thể nói rằng họ Đặng huyện Nghi Xuân - một cự tộc uy danh sánh ngang họ Nguyễn - Tiên Điền thời bấy giờ, hai dòng họ “môn đăng hộ đối” đã có những mối lương duyên đặc biệt, kết tình thông gia bền chặt, hòa thuận, gắn bó và cùng sinh ra những nhân tài kiệt xuất cho quê hương, đất nước.
Những người vợ họ Đặng được sinh dưỡng và giáo dục trong những gia đình nề nếp, danh giá; là những người thông minh, xinh đẹp, lầu thông kinh sử và họ đã có nhiều công lao khi làm vợ, làm mẹ, xây dựng gia phong, phát huy dòng họ bên chồng, dạy dỗ con cái thành tài.
Và một điều đặc biệt hơn nữa khi 3 bà vợ họ Đặng (2 bà vợ Nguyễn Nghiễm và vợ Nguyễn Công Tấn) đều sinh con, cháu là những nhà Nho tài tử nổi tiếng nhất Việt Nam đương thời.
- Bà Đặng Thị Dương là thân mẫu của Nguyễn Khản – một danh sĩ tài hoa của dòng họ Nguyễn Tiên Điền. Không chỉ là một vị quan cơ mưu, dung lược, trung với vua chúa, hiếu với mẹ cha, ông còn là một người thông minh, tài hoa, một lãng tử,một nhà văn hóa tài ba, lỗi lạc. Người xưa xem ông là bậc phong lưu tao nhã thứ nhất thời ấy.
- Bà Đặng Thị Thuyết (á thất của Nguyễn Nghiễm) có cháu nội là Nguyễn Hành (con trai Nguyễn Điều) cũng là một người thông minh học rộng, giàu văn tài, không chịu làm quan, thích lối sống tự tại, đi đây đó gặp bạn bè, làm thơ, viết phú. Nho sĩ thời bấy giờ xem ông là bậc tài hoa không dễ gì theo được.
- Bà Đặng Thị Tần (em ruột của bà Dương và bà Thuyết) đã sinh ra Nguyễn Công Trứ - một nhà Nho tài tử ngang tàng nhất Việt Nam với nhiêu giai thoại được ghi chép lại. Mặc dù vậy, Nguyễn Công Trứ cũng là một vị tướng kiêm tài văn võ, một nhà kinh tế tài ba trong lịch sử.
Những người con gái họ Đặng đều lấy chồng dòng dõi danh gia thế phiệt, đã sinh dưỡng và giáo dục nên những nhân tài kiệt xuất đất Nghi Xuân, làm rạng danh dòng họ và có công lớn với nước nhà.
Lời kết
Trải qua một thời kỳ dài đồng hành cùng lịch sử dân tộc, những truyền thống tốt đẹp của dòng họ Đặng “Trung – Hiếu – Trí – Dũng” vẫn luôn được gìn giữ, phát huy, góp phần bồi đắp các giá trị truyền thống quý báu của quê hương. Nhờ sự khuyến học, rèn dạy của các thế hệ tiền nhân, quan mệnh mà mạch khoa bảng, văn chương luôn được khai sáng cho tới mãi về sau, tiếp nối những thế hệ hậu bối học hành, khoa cử đỗ đạt, thi đua cùng Trăm Họ, góp sức làm rạng danh dòng tộc, non sông.
“Đã mấy ngàn năm cùng giang sơn xã tắc trường tồn
Những anh hùng hiển hách chiến công
Những danh nhân tô đẹp sông núi
Làm rạng danh dòng tộc, làm rạng danh non sông…”
(Đặng tộc Việt Nam ca)
Tài liệu tham khảo:
1. Đông hồ Lê Văn Diễn (2001), Nghi Xuân địa chí, Ủy ban Nhân dân huyện Nghi Xuân.
2. Nguyễn Thị Thương Hiền (2003), Lý lịch di tích lịch sử - văn hóa nhà thờ Đặng Sỹ Vinh, thị trấn Nghi Xuân, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; lưu trữ tại Bảo tàng tỉnh Hà Tĩnh.
3. Trần Hồng Dần (2005), Lý lịch di tích lịch sử - văn hóa đền thờ Đặng Thái Bàng, thị trấn Nghi Xuân, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; lưu trữ tại Bảo tàng tỉnh Hà Tĩnh.
4. Bùi Thiết (2000), Từ điển Hà Tĩnh, NXB Văn hóa Thông tin
5. Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí tập I,II,III; NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
6. Bùi Hạnh Cần (1997), Kinh Dịch phổ thông, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
7. UBND huyện Nghi Xuân (2019), Địa chí huyện Nghi Xuân, NXB Đại học Vinh.
8. Gia phả họ Đặng làng Uy Viễn
9. Đông hồ Lê Văn Diễn (2001), Nghi Xuân địa chí quyển 1&2, UBND huyện Nghi Xuân.