Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
1. Mở đầu
Đền thờ Lê Tuấn còn có tên gọi là Đền cụ Thượng hay Đền Tướng công họ Lê là di sản văn hóa tiêu biểu của huyện Kỳ Anh, là nơi thờ tự một vị đại khoa, một vị quan lớn thời Tự Đức nhà Nguyễn là Lê Tuấn, có nhân cách, đạo đức và có nhiều công lao đối với nhân dân và đất nước được vua tôi mến mộ, người đời trân trọng và quê hương, dòng họ tự hào. Di tích chứa đựng nhiều nguồn tư liệu thuộc các lĩnh vực khác nhau như lịch sử, kiến trúc, tập quán xã hội, tín ngưỡng trong đó tiêu biểu là nguồn tư liệu Hán Nôm khá phong phú góp phần quan trọng bổ sung vào việc nghiên cứu nhân vật lịch sử, thời đại và truyền thống văn hóa học hành khoa bảng của xã Kỳ Văn và huyện Kỳ Anh. Ở bài nghiên cứu này, chúng tôi giới thiệu qua về danh nhân và đền thờ, đồng thời tập trung nghiên cứu sâu về nguồn tư liệu Hán Nôm hiện có lưu giữ tại di tích.
Đền thờ Lê Tuấn, xã Kỳ Văn, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh
2. Hành trạng Hoàng giáp - Thượng thư Lê Tuấn
Lê Tuấn (1817 – 1874), người làng Mỹ Lụ, xã Hà Trung, nay là xã Kỳ Văn, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là dòng dõi võ tướng thời Lê, quê gốc làng Đình Bảng, Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh, vào làm quan và định cư ở Kỳ Hoa. Đến thế kỷ XIX, gia đình ông có nhiều người đỗ đạt và làm quan. Cha ông là Lê Khoáng đỗ Cử nhân, làm quan đến Thị độc học sĩ và 2 người anh là Lê Đức đỗ Phó bảng, Lê Doãn đỗ Cử nhân dưới các triều vua Thiệu Trị và Tự Đức.
Thủa nhỏ, ông rất chăm học và thông thạo nghề nông. Năm Nhâm Dần (1842), ông bắt đầu đi thi, 5 khoa liền đỗ Tú tài. Đến năm Canh Tuất (1850), ông đỗ Cử nhân lúc 30 tuổi. Ở khoa thi đình năm Quý Sửu (1853), niên hiệu Tự Đức thứ 6 (1853), ông đỗ Hoàng giáp (Đệ nhị giáp Tiến sĩ) lúc 36 tuổi.
Ông là người đức độ, thanh liêm và tài năng và rất được vua Tự Đức tin dùng. Do đó, ông được giữ nhiều trọng trách từ Hàm lâm viện tu soạn, Tri phủ Nghĩa Hưng, Giám sát ngự sử, Chánh sứ tuế công nhà Thanh, Thượng thu Bộ Hình. Năm Tự Đức thứ 24 (1871), ông giữ chức Khâm sai Thị sứ Bắc Kỳ cùng Hoàng Tá Viêm dẹp các cuộc khởi nghĩa của Tô Thứ, Hoàng Tề và thương thuyết với Pháp về việc thông thương trên Sông Hồng. Năm Tự Đức thứ 26 (1873), ông làm Chánh sứ sang Pháp thương thuyết về việc chuộc 3 tỉnh miền tây Nam Kỳ. Khi chết, ông được tặng hàm Hiệp biện Đại học sĩ.
3. Đền thờ Lê Tuấn ở huyện Kỳ Anh
Sau khi ông mất 20 năm (tức năm 1894), Đền thờ Lê Tuấn mới được xây dựng tại quê nhà. Hiện nay di tích thuộc xóm Thanh Sơn xã Kỳ Văn, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Đền ngoảnh hướng Đông Nam, có kiến trúc mặt bằng hình chữ Nhị (二), xung quanh được xây tường bao, phía trước là đường giao thông, 3 mặt còn lại giáp khu dân cư. Đền có: Nghi môn, tắc môn, bái đường và hậu cung. Các đơn nguyên kiến trúc được bố trí đăng đối trên trục thần đạo, hài hòa với cảnh quan xung quanh.
Nghi môn là 4 trụ biểu hình trụ vuông chia thành 2 trụ chính và 2 trụ phụ. Các trụ đều được phao chỉ cầu kỳ. Đầu trụ chính hình 4 con chim phượng chầu lại. Đầu trụ phụ gắn đôi nghê chầu. Tắc môn hình cuốn thư trang trí hoa lá. Cả nghi môn và tắc môn được xây dựng năm 2016.
Bái đường mới xây dựng cao ráo và bề thế với 3 gian, 2 hồi, cửa ra vào bằng pa nô. Kết cấu bộ vì kiểu nhà kẻ bằng gỗ với các đường xà ngang, xà dọc, cột cái, cột trốn to mập tạo nên bộ khung cho đơn nguyên. Bái đường 3 phía được xây tường bao khá kín đáo. Mặt trước được trang trí khá công phu với các đề tài truyền thống như rồng ở cột hiên và thượng ốc, kìm nguýnh ở đầu đao...
Phía sau bái đường là hậu cung. Đây là đơn nguyên 3 gian còn giữ được nhiều nét kiến trúc thời Nguyễn với bộ vì kẻ bằng gỗ, xung quanh xây tường bao. Bố trí nội thất là nơi đặt bàn thờ trong đó có thần chủ của Lê Tuấn.
Nhờ những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học và nhằm làm cơ sở khoa học và pháp lý trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di tích và tôn vinh danh nhân, Đền thờ Lê Tuấn được UBND tỉnh Hà Tĩnh xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh tại Quyết định số 44/QĐ-UBND, ngày 09 tháng 01 năm 2008.
4. Các tư liệu Hán Nôm lưu tại di tích
Hiện tại Đền thờ Lê Tuấn có nhiều tư liệu Hán Nôm liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của ông.
Biển Ân tứ vinh quy vua Tự Đức tặng Lê Tuấn sau khi ông đỗ Hoàng giáp
Thước Lỗ Ban của Lê Tuấn, niên đại thời Nguyễn bằng chất liệu gỗ, hình hình khối chữ nhật được bào nhẵn, dài 83cm, rộng 4cm, dày 3cm. Bốn mặt đều nạm chữ Hán thể chân thư kích thước khá lớn, dễ đọc. Mặt thứ nhất khắc 3 chữ Hán 魯班尺 (Lỗ Ban xích, nghĩa là thước Lỗ Ban). Mặt này được chia thành 8 cung ghi bằng chữ Hán gồm chữ 財 (tài nghĩa là tiền bạc),病 (Bệnh nghĩa là bệnh tật),離 (Ly nghĩa là chia lìa) ,義 (Nghĩa nghĩa là chính nghĩa, tình nghĩa),官 (Quan nghĩa quan chức),刼 (Kiếp nghĩa là tai họa),害 (Hại nghĩa là thiệt hại),本 (Bản nghĩa là vốn liếng, bổn mệnh) và 八卦 (Bát quái nghĩa là 8 quẻ). Phía trước 4 mặt đều trang trí con dơi biểu tượng cho chữ 福 (phúc). Mặt thứ 2 khắc 3 chữ Hán: 官田尺 (Quan điền xích, nghĩa là thước ruộng). Mặt thứ 3 khắc 3 chữ 官木尺 (Quan mộc xích, nghĩa là thước gỗ). Mặt 4 khắc 3 chữ Hán: 官縫尺(Quan phùng xích nghĩa là thước may vá). Toàn bộ hoa văn trang trí và chữ Hán đều được khảm xà cừ trông rất đẹp mắt. Nhìn chung, thước còn khá nguyên vẹn chỉ có một số chữ Hán trên thước khảm xà cừ bị tróc. Sau khi đỗ Hoàng giáp (Đệ nhị giáp) khoa Quý Sửu (1853), Lê Tuấn được vua Tự Đức cho về vinh quy bái tổ và ban biển gỗ đang được trưng bày tại Đền thờ Lê Tuấn được sơn son bề mặt dài 51cm, rộng 15cm, giữa khắc 4 chữ Hán thể chân thư màu vàng: 恩賜榮歸 (Ân tứ vinh quy, nghĩa là ban ơn vinh quy). Trên thần vị của Lê Tuấn đặt trên long ngai sơn son thếp vàng đặt trên bàn thờ chính giữa hậu cung Đền thờ có dòng chữ Hán màu vàng viết theo chiều dọc từ trên xuống dưới thể chân thư: 黄甲尚書黎相公諱國俊神主 (Hoàng giáp Thượng thư Lê tướng công húy Quốc Tuấn thần chủ, nghĩa là Thần chủ Hoàng giáp Thượng thư Tướng công họ Lê, tên húy là Quốc Tuấn). Bên trong, phía trên gian giữa hậu cung có treo bức hoành phi hình chữ nhật được tạo tác rất đẹp, xung quan được sơn son, trang trí diềm hoa lá, giữa trang trí bằng cách chạm lộng đề tài rồng chầu mặt nguyệt được thếp vàng nằm xen kẻ là 4 chữ Hán thể chân thư màu đen rất lớn bố trì từ phải qua trái ca ngợi tấm lòng trung nghĩa và uy linh của Hoàng giáp – Thượng thư Lê Tuấn: 忠義威靈 (Trung nghĩa uy linh). Ngoài ra ở đây còn treo bức đại tự: 蓮湖 (Liên hồ nghĩa là hồ sen). Phía trong nữa của hậu cung cũng có biển gỗ hình chữ nhật được sơn son thếp vàng, bề mặt trang trí nhiều chữ Hán, chính giữa ghi họ tên và hàm của Lê Tuấn: 協辨大學士黎捘 (Hiệp biện Đại học sĩ Lê Tuấn), bên phải ghi thêm chức vụ Thượng thư của ông: 尚書. Bên trái ghi học vị Hoàng giáp của ông: 黄甲. Trên cửa ra vào hai bên hậu cung trang trí 4 chữ Hán được cách điệu hình vuông khá lớn và độc đáo: 福祿壽喜 (Phúc, Lộc, Thọ, Hỉ). Trên cửa chính giữa tạo bức cuốn thư, bề mặt ghi 4 chữ Hán lớn: 黎相公祠 (Lê Tướng công từ, ý nói đây là ngôi đền thờ Tướng công Lê Tuấn). Nội thất hậu cung còn trang trí đôi câu đối chữ được khắc trên gỗ sơn son thếp vàng, nội dung ca ngợi công lao của Lê Tuấn đối với đất nước và được nhân dân biết được công ơn và phụng thờ.Nguyên văn chữ Hán:
後前濯也功於國
左右洋乎祀在民
Phiên âm:
Hậu tiền trạc dã công ư quốc
Tả hữu dương hồ tự tại dân
Dịch nghĩa:
Trước sau sáng tỏ công lao đối với đất nước vậy
Phải trái mênh mông thay thờ tự ở trong nhân dân
Đôi câu đối chữ Hán thứ 2 ca ngơi công lao, tấm lòng phụng sự tổ quốc không biết mệt mõi và đức tính trong sạch, không màng danh lợi luôn vì nhân dân của Hoàng giáp – Thượng thư Lê Tuấn.Nguyên văn chữ Hán:
奉祖國冉心忠勇
爲人群積志清廉
Phiên âm:
Phụng tổ quốc nhiễm tâm trung dũng
Vi nhân quần tích chí thanh liêm
Dịch nghĩa:
Dâng hiến tổ quốc triền miên tấm lòng trung dũng
Vì nhân quần tích ý chí thanh bạch và ngay thẳng
Đôi câu đối 2 bên phía mặt trước hậu cung ca ngợi quê hương địa linh làng Mỹ Lụ, con người tài giỏi làm nên thuần phong, mỹ tục (Người tài giỏi ở đây ý nói đến Lê Tuấn).Nguyên văn chữ Hán
地存靈地起淳風
人有傑人成美俗
Phiên âm:
Địa tồn linh địa khởi thuần phong
Nhân hữu kiệt nhân thành mỹ tục
Dịch nghĩa:
Đất linh thiêng, đất mở đầu thuần phong
Người tài giỏi, người làm nên tập quán đẹp
Đôi câu đối chữ Hán mặt trước gian giữa hậu cung có nội dung ví công lao phổ hóa của Lê Tuấn cao như núi cao vạn trượng và công cứu giúp đời sáng vằng vặc như trăng tròn.Nguyên văn chữ Hán:
普化功高山萬丈
濟生德著月千秋
Phiên âm:
Phổ hóa công cao sơn vạn trượng
Tế sinh đức trứ nguyệt thiên thu
Dịch nghĩa:
Công phổ hóa cao như núi vạn trượng
Đức cứu đời sáng mãi như trăng tròn
Đôi câu đối chữ Hán ở nghi môn có nội dung ca ngợi vùng đất địa linh, vẻ đẹp của ngôi đền và công lao, tài năng, ân đức của Lê Tuấn đối với nhân dân và đất nước.Đôi thứ nhất:
Nguyên văn chữ Hán:
崇祠巍峩存千古
寶命輝煌永萬年
Phiên âm:
Sùng từ nguy nga tồn thiên cổ,
Bảo mạng huy hoàng vĩnh vạn niên.
Dịch nghĩa:
Đền cao nguy nga tồn tại mãi
Vận huy hoàng mãi muôn đời
Đôi thứ 2:
Nguyên văn chữ Hán:
五色祥雲緣聖殿
千秋恩霧覆民家
Phiên âm:
Ngũ sắc tường vân duyên thánh điện
Thiên thu ân vụ phúc dân gia
Dịch nghĩa:
Mây lành 5 màu bao quanh điện thánh
Khói sương ân đức ngàn năm bao trùm nhân dân và gia đình
Đôi thứ 3:
Nguyên văn chữ Hán:
功在前朝名在史
生爲良將死爲神
Phiên âm:
Công tại tiền triều danh tại sử
Sinh vi lương tướng tử vi thần
Dịch nghĩa:
Công lao tại triều đình, tên tuổi ghi trong sử sách
Sống làm tướng giỏi, chết thành thần
Đôi thứ 4:
Nguyên văn chữ Hán:
地脈靈鍾開駿業
人文霨起展鴻才
Phiên âm:
Địa mạch linh chung khai tuấn nghiệp
Nhân văn úy khởi triển hồng tài
Dịch nghĩa:
Mạch đất hội tụ linh thiêng mở ra nghiệp lớn
Văn chương tươi đẹp phát triển tài năng lớn
Ở tắc môn có dòng chữ Nôm ghi tên ngôi đền: 祠堂公尚 (Từ đường Cụ Thượng).5. Kết luận
Tóm lại, Lê Tuấn là người có nhiều công lao đối với đất nước đã được ghi danh vào sử sách, Nhà nước tôn vinh, nhân dân và dòng họ thờ phụng. Việc biên dịch các tư liệu Hán Nôm hiện có góp phần quan trọng trong việc nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học của di tích, giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ, tạo động lực gắng sức xây dựng quê hương, đất nước; biến di tích thành nguồn tài nguyên văn hóa và du lịch phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đặng Duy Báu (Chủ biên - 2016), Lịch sử Hà Tĩnh, Tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội. (1996), Địa chí huyện Kỳ Anh, Huyện ủy và UBND huyện Kỳ Anh. Thái Kim Đỉnh (1996), Địa chí huyện Kỳ Anh, Huyện uỷ và Uỷ ban nhân dân huyện Kỳ Anh. Nguyễn Thị Thương Hiền, Lý lịch di tích Đền thờ Lê Tuấn, lưu tại Bảo tàng tỉnh Hà Tĩnh. Bùi Thiết (2000), Từ điển Hà Tĩnh, Sở Văn hóa và Thông tin Hà Tĩnh.