Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Lịch sử các nghề thủ công truyền thống xuất hiện ở nước ta từ rất sớm, những nghề thủ công này tập trung theo từng địa phương, gọi là làng nghề, mức độ phát triển tuỳ theo từng thời điểm lúc thịnh, lúc suy….Dệt là một trong những nghề thủ công tiêu biểu có truyền thống lâu đời nhất của vùng đất Nghệ Tĩnh nói riêng và Việt Nam nói chung, xuất hiện vào khoảng thế kỷ XV. Ban đầu trồng bông dệt vải chỉ là nghề phụ phổ biến trong thời gian nông nhàn, sản phẩm làm ra chủ yếu phục vụ nhu cầu sinh hoạt của gia đình, sau này phát triển dần thành các làng nghề chuyên dệt vải, trong đó Thạch Đồng là một trong những làng dệt cổ truyền nổi tiếng.
Sách “Lịch sử Nghệ Tĩnh” (tập 1- NXB Nghệ Tĩnh 1984) có đề cập đến nghề dệt Đồng Môn. Sách “Phong thổ ký các huyện tỉnh Hà Tĩnh (SVHTT Xb năm 2000), phần Thạch Hà phủ phong thổ ký có ghi: “Đồng Môn có nghề dệt vải”.
Ban đầu, nghề dệt Đồng Môn cũng như bao nghề thủ công ở những làng quê khác, đó chỉ là nghề phụ trong lúc nông nhàn. Lực lượng lao động chủ yếu là những người phụ nữ khéo léo, cần cù chịu khó. Sản phẩm làm ra còn mộc mạc thô sơ, số lượng ít, chỉ phục vụ đủ cho nhu cầu của gia đình, sau đó số lượng sản phẩm dệt tăng dần thành sản phẩm hàng hóa có thể đưa ra trao đổi, mua bán tại các chợ địa phương.
Cuốn “La Province de Ha Tinh” (Tỉnh Hà Tĩnh) do RoLand Bulateau viết từ năm 1925 (Bùi Đình Thiện dịch) chép: “ở Hà Tĩnh có nhiều cây tra, vỏ có thể tách thành sợi để bện thừng hoặc xe thành từng sợi nhỏ để dệt võng. Cũng ở Thạch Hà, người ta có thể làm được những chiếc quạt dệt bằng lông chim (quạt lông) nhuộm nhiều màu sắc rất đẹp…Trong nông nghiệp có nghề trồng bông dệt vải, thời kỳ đó mỗi gia đình dành một khoảng đất trồng bông dệt đổi lấy vải, đó cũng được xem là một nghề phổ biến…”
Thời thuộc Pháp, cũng RoLand Bulateau trong cuốn “tỉnh Hà Tĩnh” đã có thống kê: “nghề dệt vải ở phủ Thạch Hà năm 1942: Số lượng thợ nghề có 422-451 thợ; số lượng sản phẩm 1 năm: 1.074.800m, giá thành sản phẩm 129.000đ.”
Và trong giai đoạn này thì các nghề thủ công nói chung và nghề dệt nói riêng “công nghệ làm bằng tay với những dụng cụ thô sơ, thường hoạt động theo từng gia đình, từng nhóm, nên kết quả sản xuất còn rất nghèo nàn, chỉ làm ra những sản phẩm dùng hàng ngày đơn giản và thô sơ. Họ chỉ đủ sống dựa vào sản phẩm của đồng ruộng, dựa vào nghề dệt vải tự túc”.
Đến thời kỳ chống Mỹ, ngoài việc sản xuất tự túc tự cấp, làng dệt Đồng Môn còn làm ra các sản phẩm như vải mòi, khăn màn, khăn mặt…cung cấp cho nhà nước phục vụ đắc lực cho chiến trường.
Giai đoạn nghề dệt Đồng Môn (Thạch Đồng) phát triển thịnh đạt nhất tính từ năm 1974 đến 1989- giai đoạn thành lập hợp tác xã Đồng Tâm, nhiều công trình nhà xưởng được xây dựng để đưa nhân công vào dệt tập trung, thu hút một lực lượng lao động rất lớn. Nhân công nhà dệt hưởng lương theo sản phẩm, những thợ khéo tay dệt ra những sản phẩm đẹp được khen thưởng. Khi lực lượng lao động quá đông vượt sức chứa của nhà dệt thì ban chủ nhiệm HTX quyết định phân khung và chia nguyên liệu về cho từng hộ gia đình dệt tại gia, đến kỳ HTX đến từng gia đình thu mua sản phẩm. Giai đoạn này có khoảng 40% số hộ trong xã vào HTX dệt Đồng Tâm và họ hoàn toàn thoát ly sản xuất nông nghiệp, không được phân chia ruộng đất.
Sản phẩm làm ra được nhà nước thu mua để xuất khẩu theo đơn đặt hàng của Liên Xô và các nước Đông Âu.
Cuối thập niên 80 của kỷ XX, nghề dệt Đồng Môn đi vào giai đoạn khủng hoảng và suy yếu dần do sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu làm mất đi thị trường tiêu thụ. HTX dệt giải thể do sự cạnh tranh của hàng ngoại nhập và mất dần thị trường trong nước. Tuy nhiên, vẫn tồn tại các hộ gia đình sản xuất cá thể, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, số lượng sản phẩm cầm chừng, nhưng do họ không có đủ khả năng đổi mới thiết bị công nghệ để nâng cao chất lượng và năng suất nên sản phẩm làm ra không cạnh tranh được trên thị trường, dẫn đến sự mất dần làng nghề. Hiện nay, làng nghề chuyển sang làm những mặt hàng mới như may chăn, ga, gối, nệm, màn khung, may mặc thủ công… thị trường tiêu thụ rộng trên khắp cả nước.
Gắn liền với hoạt động sản xuất là những sinh hoạt văn hoá tinh thần của người dân làng dệt. Trở lại thời kỳ thịnh đạt nhất của nghề dệt Đồng Môn là tiếng rộn rã đưa thoi ngày đêm miệt mài của những người thợ dệt cùng những câu hò câu ví theo tiếng thoi đưa:
“Ôi quê hương ruộng ít, người đông
Mang cái tên rất đẹp Thạch Đồng
Uyển chuyển đường thoi, ngọt ngào câu ví dặm
Đất cần cù nối sự nghiệp cha ông”
Vang lên khúc hát ca ngợi quê hương mình với nhiệm vụ thiêng liêng là làm ra những sản phẩm, vật dụng phục vụ cho cuộc kháng chiến trường kỳ của đất nước:
“Thạch Đồng nắng tỏa trăng nghiêng
Con thoi dệt vải xe duyên chung tình
Sợi chỉ ân tình trắng tinh chung thuỷ
Theo Đảng lên đường đánh Mỹ yên tâm”.
Các cô gái làng dệt xưa cũng nổi tiếng xinh đẹp bởi họ không phải dãi nắng dầm mưa, chân lấm tay bùn nơi ruộng đồng cấy hái. Bởi vậy, những cô gái có nước da trắng hồng và đôi bàn tay rất khéo léo, biết làm ra những sản phẩm phục vụ quê hương:
“ Tay em lao thoi chân dậm nhịp nhàng
Tấm vải em đi khắp chợ, khắp làng
Đẹp một món hàng dân gian truyền thống”
Sự chân chất, mộc mạc thể hiện qua từng câu hát:
“Mọi bựa em cũng hay hát hay hò
Bựa ni mắc bỏ go, xâu khổ…
Nên dừ mới lò mò ra đây”….
Tiếp nối truyền thống quê hương, ngày nay Thạch Đồng vẫn tiếp tục sản xuất ra các mặt hàng như chăn, ga, gối, nệm, màn khung….. Hệ thống máy móc đã được đầu tư với công nghệ sản xuất tiên tiến và hiện đại, tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, mẫu mã đẹp để cung ứng cho thị trường nội tỉnh, thị trường trong nước và khu vực.
Như vậy, làng dệt truyền thống Đồng Môn (Thạch Đồng) đang có có những cơ hội để khôi phục và phát triển. Để làm sống dậy nghề dệt Thạch Đồng có thể theo 2 hướng: - Khôi phục nghề dệt để sản xuất ra những mặt hàng theo hướng thủ công truyền thống, cần sự khéo léo tỉ mẫn của người thợ để phục vụ khách du lịch; đồng thời cần tăng cường nguồn vốn, đầu tư kỹ thuật công nghệ, trang thiết bị và máy móc sản xuất theo hướng hiện đại để làm ra những sản phẩm đủ sức cạnh tranh với thị trường. Đồng thời cần có các giải pháp và chính sách tạo việc làm cho người lao động và tăng thu ngân sách của tỉnh.