Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Trong tiến trình lịch sử dân tộc, hình tượng người phụ nữ Việt Nam không chỉ gắn với thiên chức gia đình mà còn hiện diện trong vai trò giữ nước, hộ quốc, góp phần tạo nên những giá trị tinh thần trường tồn. Trong số đó, Chế Thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu là một nhân vật tiêu biểu, hội tụ trí tuệ, bản lĩnh và đức hy sinh. Bà không chỉ là cung phi triều Trần, người để lại dấu ấn qua bản Kê minh thập sách đầy minh triết, mà còn là tấm gương sáng ngời về lòng trung trinh, tận trung với vua, với nước. Sau khi hy sinh trong cuộc chiến chống Chiêm Thành, bà được nhân dân tôn kính, triều đình sắc phong, trở thành biểu tượng thiêng liêng trong đời sống tinh thần của cộng đồng ven biển Hà Tĩnh.
Hệ thống di tích lịch sử - văn hóa thờ Nguyễn Thị Bích Châu ở Hà Tĩnh tập trung chủ yếu ở Kỳ Anh và Cẩm Xuyên. Trong đó, Đền Hải Khẩu (Hải Khẩu Linh Từ) tại phường Kỳ Ninhđược xem là trung tâm tín ngưỡng lớn nhất, gắn với những kiến trúc cổ kính, phong tục thờ tự trang nghiêm và lễ hội truyền thống quy mô, đã được xếp hạng di tích lịch sử quốc gia. Bên cạnh đó, Đền Eo Bạch và Đền Cả - Nhượng Bạn cũng là những di tích quan trọng, phản ánh sự tôn kính sâu sắc của các thế hệ đối với bà. Không chỉ mang ý nghĩa lịch sử, các di tích này còn là minh chứng cho sự gắn kết cộng đồng, bảo lưu bản sắc văn hóa vùng ven biển Hà Tĩnh, nơi mà tín ngưỡng thờ Nguyễn Thị Bích Châu đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống tâm linh.
Nghiên cứu các di tích thờ Nguyễn Thị Bích Châu ở Hà Tĩnh vì thế không chỉ góp phần tìm hiểu về một nhân vật lịch sử - văn hóa tiêu biểu, mà còn mở ra hướng tiếp cận giá trị di sản văn hóa phi vật thể gắn với tín ngưỡng, phong tục và bản sắc địa phương.
Các di tích lịch sử - văn hóa thờ Nguyễn Thị Bích Châu chủ yếu tập trung ở các khu vực ven biển phía nam của tỉnh Hà Tĩnh là Kỳ Anhvà Cẩm Xuyên. Kỳ Anh có Đền thờ chính Hải Khẩu Linh Từ được lập cuối thời Trần sau khi bà mất. Tín ngưỡng thờ Nguyễn Thị Bích Châu có ảnh hướng lớn về mặt văn hóa tâm linh đến vùng phía nam tỉnh Hà Tĩnh từ xưa tới nay. Hàng năm có hàng vạn người hành hương về đây để thỉnh cầu Chế thắng phu nhân phù hộ, độ trì, giải hạn, cầu yên.
Chế Thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu quê xã Bảo Lộc, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định, con gái của đại thần Nguyễn Tướng Công, một vị quan rất mực thanh liêm. Từ nhỏ, bà được dạy dỗ chu đáo, khi trưởng thành văn võ toàn tài. Đến năm Long Khánh thứnhất (1373), bà được vua Trần Duệ Tông tuyển làm cung phi. Nhưng lúc bấy giờ, chế độ phong kiến nhà Trần vào thời kỳ suy vi, chính sự đỗ nát, nhân tài không được trọng dụng, Cung phi Nguyễn Thị Bích Châu bèn thảo bản Kê minh thập sách dâng lên nhà vua và được khen ngợi là thông tuệ. Bản Kê minh thập sách có nội dung như sau:
- Bền gốc nước trị kẻ bạo tàn thì lòng người mới yên
- Giữ đúng quy định, xóa bỏ phiền nhiễu thì triều cương không rối
- Trị kẻ lạm quyền tránh họa ngầm cho nước
- Đuổi kẻ tham nhũng cho dân chúng đủ sống
- Chấn chỉnh việc học hành cho sáng rõ trời đất
- Mong được nghe câu nói thẳng, mở rộng cửa ngôn luận như mở rộng cửa thành
- Chọn quân thì dựa vào dũng lược, không nhằm vào vóc dáng cao lớn
- Chọn tướng thì nhằm vào thao lược, không nhằm vào thế gia
- Vũ khí cần sắc bén, không cần trang trí sặc sỡ
- Tập trận thì cần chỉnh tề, chặt chẽ, chứ không phải giở trò múa máy cho đẹp mắt
Năm 1377, nhà vua thân chinh đánh Chiêm Thành. Bích Châu can ngăn nhưng vua không nghe nên xin theo hộ giá. Khi quân nhà Trần đến cửa Thị Nại (Quy Nhơn), vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga cho sứ giả đem vàng ngọc tới để trá hàng, sau đó bất ngờ đánh vào nửa đêm. Quân nhà Trần bị tấn công bất ngờ, long thể nhà vua bất an. Bích Châu cầm quân xung trận, cưỡi ngựa tả sung hữu đột giữa vòng vây và trúng tên độc, sau đó từ trần. Ba ngày sau, vì bệnh quá nặng, vua Trần Duệ Tông cũng băng hà, buộc quân nhà Trần rút luy về kinh đô khi tới Châu Hoan thì sóng to gió lớn, tàu thuyền phải ghé vào vũng Ô Tôn (Vũng Áng). Lúc này, vua Trần Phế Đế mới lên ngôi cho rước linh cữu nhà vua về bằng đường bộ, còn linh cữu Bích Châu về bằng đường biển. Sau mấy ngày trời trên biển, do thời tiết không thuận lợi, triều đình xuống chiếu bà tại Cửa Khẩu, biển Kỳ La, huyện Kỳ Hoa, Châu Hoan.
Năm 1470, trong lần đem quân đi đánh Chiêm Thành, vua Lê Thánh Tông đến đồn trú ở đây thấy trên núi có miếu thờ Nguyễn Thị Bích Châu, bèn hỏi các bô lão và được biết bản thần tích, công trạng của bà, bèn cho bày đồ tế lễ và đề bốn chữ “Nữ Trung Hào Kiệt”, sau đó sắc phong cho bà là “Chế thắng Phu nhân”.
Tưởng nhớ đến công ơn của bà, nhân dân nhiều làng ven biển phía nam Hà Tĩnh lập đền thờ ngày đêm hương khói tưởng nhớ công ơn của bà, tiêu biểu hiện nay còn có các di tích: Đền Hải Khẩu, Đền Eo Bạch và Đền Cả - Nhượng Bạn. Trong đó, Đền Hải Khẩu ở phường Kỳ Ninhlà lớn nhất, là nơi thờ chính, đền còn giữ được nhiều kiến trúc cổ thời Nguyễn. Đặc biệt, Lễ hội Đền Bà Hải được tổ chức thu hút cộng đồng vùng lân cận tham gia.
Đền Hải Khẩu (Hải Khẩu Linh Từ) hay còn có tên: Đền Bà Hải, Đền Chế Thắng Phu Nhân nằm ở Cửa Khẩu nay thuộc phường Kỳ Ninh, trên một bãi đất ven biển, mặt quay về hướng Đông Nam, với núi Cao Vọng bên phải, bên trái xa xa là núi Ô Tôn, trước mặt là cảng Vũng Áng, phía sau là núi Bàn Độ. Lúc đầu, đền có kiến trúc “Tiền miếu, hậu lăng”. Hiện nay, đền có quy mô khá lớn. So với trước kia, đền được xây dựng thêm nhà sắc, miếu thờ thần, nhà đón tiếp, nhà chuông khánh, hạ điện, trung điện, thượng điện, cổng chính, cổng phụ. Hiện nay, một số hạng mục công trình còn mang phong cách kiến trúc thời Nguyễn, hài hòa với cảnh quan xung quanh. Trên các đơn nguyên kiến trúc có nhiều câu đối ca ngợi cảnh đẹp của đền và ca ngợi công đức và sự linh thiêng của Chế Thắng Phu Nhân Nguyễn Thị Bích Châu.
Lễ hội Đền Hải Khẩu diễn ra vào ngày 11 tháng 2 âm lịch vào ngày mất của Nguyễn Thị Bích Châu. Vào các năm chẵn, năm năm tổ chức một lần, lễ hội được kéo dài trong ba ngày: 11, 12 và 13 tháng 2 âm lịch. Đây là lễ hội lớn nhất ở phía nam Hà Tĩnh được cộng đồng trong vùngphụ cận tham gia. Phần lễ có lễ rước nước, lễ mộc dục, tế gia quan, rước đám rước, tế đại tế, lễ túc trực, lễ hèm. Phần hội của lễ hội có hát ví - giặm, diễn chèo, diễn kịch về Chế Thắng Phu Nhân; nấu cơm, đánh cờ người, đi cà kheo…
Nhiều đời vua thời Hậu Lê và Nguyễn sắc phong giao cho nhân dân địa phương thờ phụng Nguyễn Thị Bích Châu. Sắc phong ở Đền Cả - Nhượng Bạn (nay là xã Thiên Cầm) năm Minh Mệnh thứ 5 (1824) có ghi: “Sắc chế là Thắng Bảo Thuận ý Linh hiển phu nhân tôn thần. Là bậc bảo vệ đất nước, giúp đỡ muôn dân, hiển hiện công đức, nay đã trải qua nhiều triều đại ban sắc phong tặng, phụng mệnh Thế tổ Cao hoàng đế thống nhất thiên hạ, ân điển ban bố khắp các thần kinh, đến nay còn sáng tỏ, nối mãi nghiệp nước nhớ đến ơn thần, mở ra ân điển. Mới gia phong Danh thơm tiết liệt, Trung đẳng thần. Chuẩn cho xã Nhượng Bạn, huyện Kỳ Hoa phụng thờ như cũ thần luôn giúp đỡ bảo vệ dân ta”.
STT |
Tên gọi di tích |
Địa điểm |
Ghi chú |
1 |
Đền Hải Khẩu |
Phường Hải Ninh |
Đã xếp hạng |
2 |
Đền Eo Bạch |
Phường Vũng Áng |
Đã xếp hạng |
3 |
Đền Cả |
Xã Thiên Cầm |
Đã xếp hạng |
Bảng thống kê các di tích lịch sử thờ Nguyễn Thị Bích Châu ở Hà Tĩnh
Các di tích lịch sử - văn hóa thờ Chế Thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu ở Hà Tĩnh là những chứng tích quan trọng, kết tinh từ sự tưởng niệm, tôn vinh và tri ân đối với một nhân vật lịch sử tiêu biểu của dân tộc. Thông qua các đền thờ như Hải Khẩu, Eo Bạch, đền Cả - Nhượng Bạn, người dân không chỉ bày tỏ lòng ngưỡng vọng đối với tấm gương tiết liệt, anh hùng mà còn duy trì, củng cố mối liên kết cộng đồng bằng những nghi lễ, phong tục và lễ hội truyền thống. Đây chính là sự giao thoa giữa lịch sử và văn hóa, giữa giá trị vật thể và phi vật thể, góp phần làm giàu bản sắc tinh thần của cư dân vùng ven biển Hà Tĩnh.
Tín ngưỡng thờ Nguyễn Thị Bích Châu không chỉ dừng lại ở sự tôn kính một cá nhân, mà còn hàm chứa khát vọng hòa bình, sự che chở và niềm tin tâm linh của cộng đồng. Lễ hội Đền Bà Hải, với những nghi thức trang trọng và hoạt động phần hội phong phú, là minh chứng rõ nét cho sự lan tỏa và bền bỉ của truyền thống này trong đời sống đương đại. Đồng thời, những sắc phong qua nhiều triều đại cho thấy sự công nhận ở tầm quốc gia, khẳng định vai trò của bà như một biểu tượng nữ anh hùng trong lịch sử dân tộc.
Trong bối cảnh hiện nay, việc bảo tồn và phát huy giá trị các di tích thờ Nguyễn Thị Bích Châu không chỉ là trách nhiệm của cộng đồng địa phương, mà còn gắn với chiến lược chung về gìn giữ di sản văn hóa dân tộc. Đây là nguồn lực tinh thần to lớn, góp phần giáo dục truyền thống, củng cố bản sắc văn hóa và phát triển du lịch văn hóa - tâm linh của Hà Tĩnh nói riêng, của đất nước nói chung. Có thể khẳng định, di tích và tín ngưỡng thờ Nguyễn Thị Bích Châu sẽ mãi trường tồn, tiếp tục tỏa sáng trong dòng chảy lịch sử và văn hóa dân tộc Việt Nam./