Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Đào Đăng Đệ, sinh năm 1644, mất năm 1707, táng tại Cồn Năng (nay là xóm Thanh Uyên), xã Hữu Bằng (nay là xã Sơn Bằng), huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Ông có tên húy Lạng, tự Đăng Đệ. Mộc chủ đặt ở bàn thờ nhà thờ Đào Đăng Đệ có ghi: “Thủy tổ khảo bản phủ, hiệu hiệu sinh, Đào phú quân, húy Lạng, tự Đăng Đệ nhị lang thần tổ, sinh Giáp Thân niên, thập nhất nguyệt, nhị thập lục nhật Mậu Thìn. Thọ thập tam tuế. Tử Bính Tuất niên, ngũ nguyệt sơ lục nhật, táng tại Cồn Năng”. Tạm dịch: “Thủy tổ họ Đào, bản phủ, bản phủ hiệu sinh, tên húy là Lạng, tên tự là Đăng Đệ nhị lang thần tổ. Sinh giờ Mậu Thìn, ngày 26 tháng 11 năm Giáp Thân (1644). Mất giờ Bính Thìn, ngày 06 tháng 5 năm Bính Tuất (1707). Thọ 63 tuổi. Táng tại Cồn Năng”.
Ông sống dưới chế độ phong kiến Lê – Trịnh, thế vận nước nhà đã đi xuống, quan lại tham ô, tranh giành quyền lực, nhũng nhiễu dân lành, nội chiến xẩy ra liên miên, nhân dân đói khổ, cảnh chết chóc do chiến tranh xảy ra khắp nơi. Sưu cao, thuế nặng. Nhân dân bị bóc lột thậm tệ. Trai tráng phải đi lính làm tôi tớ, làm bia đỡ đạn cho giai cấp thống trị.
Đào Đăng Đệ sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống làm quan võ. Ông là cháu ruột của Đào Quang Nhiêu (1601 – 1672), quê làng Tuyền Quang, huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội. Ông là danh tướng trải qua ba đời chúa Trịnh: Trịnh Tráng, Trịnh Tạc và Trịnh Căn. Ông tham gia chiến tranh Trịnh – Nguyễn thế kỷ XVII; từng làm Trấn thủ Nghệ An, trực tiếp cầm quân chúa Trịnh đánh nhau nhiều trận với chúa Nguyễn do Nguyễn Hữu Tiền, Nguyễn Hữu Dật chỉ huy. Năm 1672, ông mất, thọ 71 tuổi, được truy tặng tước Thái tể, thụy Trung Cần và gia phong phúc thần. Năm 25 tuổi đến năm 62 tuổi, ông đánh dẹp họ Mạc ở Thất Khê (Lạng Sơn), dẹp cuộc nổi loạn của phe phái ly khai ở Thanh Liêm (Hà Nam), tuần thú, bình định trấn Sơn Nam, tham gia chinh phạt họ Nguyễn ở Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình. Từ năm 1655 đến 1660, ông tham gia chiến trường Nam Đàn, Thanh Chương, Thạch Hà, ngăn chặn không cho chúa Nguyễn lấn ra bắc sông Lam. Sau những lần dẹp loạn, trấn giữ biên giới phía nam thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, lập nhiều công lớn, năm 1661 được giữ chức Trấn thủ Nghệ An, kiêm giữ châu Bố Chánh (Quảng Bình). Năm 1645 làm Đô đốc, tước quận công; năm 1652 làm Nam quận Đô đốc; năm 1657 làm Thiếu phó; năm 1659 làm phó tướng Thiếu úy. Còn Đào Quang Huy, con Đào Quang Nhiêu, là một danh tướng, lấy Quận chúa Lê Thị Ngọc Anh, nên được ban họ Trịnh, hiệu Trịnh Kỳ. Tháng 6 năm 1670, niên hiệu Cảnh Trị thứ 8, đề đốc Tấn quân công Đào Quang Huy được cử làm Đô đốc thiêm sự. Khi mất được sắc phong thần, có nội dung: “Đại bản danh đương cảnh thành hoàng Đào công uy liệt niệm trứ linh ứng gia phong hách trạc linh thông thượng thượng đẳng tối linh tôn thần”, tạm dịch: “Đại bản danh đương cảnh thành hoàng Đào công uy liệt đã từng linh ứng, nay gia phong hách trạc linh thông thượng thượng đẳng tối linh tôn thần”.
Thủa nhỏ, Đào Đăng Đệ có tư chất thông minh. Ông được học hành đầy đủ, văn võ song toàn. Ông giỏi về đông y, lý, số. Là người thận trọng, chứng chắn trong công việc, là người sùng đạo Phật, rất thương người, thông cảm với nổi thống khổ của dân lành. Năm 20 tuổi là người cường tráng giỏi văn võ hiếm ai sánh kịp. Phụng mệnh vua Lê, chúa Trịnh, ông theo cha và ông nội nam tiến đánh chúa Nguyễn ở Nghệ An và Hà Tĩnh. Lúc bấy giờ, đất Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình là bãi chiến trường của cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn.
Về già, Đào Đăng Đệ đến định cư ở Hương Sơn và trở thành thủy tổ học đào ở xã Hữu Bằng (Sơn Bằng ngày nay). Lúc bấy giờ, nhiều vùng đất ở đây còn hoang sơ rậm rạp. Một mặt, ông là người có công tập hợp nhân dân lưu tán khắp nơi do cuộc nội chiến Trịnh – Nguyễn gây ra, về khai cơ lập nghiệp, mở ra một vùng đất rộng lớn, trù phú như Cửa Truông, Cồn Câu, Cồn Năng, Trầm Tang, Phúc Lùng ở hai bờ tả hữu sông Ngàn Phố, nay thuộc xã Sơn Bằng, huyện Hương Sơn. Các vùng đầm lầy, nước đọng như Trầm Tang, Phúc Lùng thành những cánh đồng phì nhiêu, nơi đô hội của nhiều dòng họ: họ Bùi, họ Phạm, họ Hồ, họ Nguyễn, họ Võ, họ Thái. Ông còn bốc thuốc chữa bệnh cứu người. Nhờ lập nhiều công tích mà ông được phong tước Khai Cơ hầu.
Ông mất, triều đình và nhân dân thương xót. Nhiều đời vua ban sắc phong ghi nhận công lao và phong thần cho ông, giao cho nhân dân thờ phụng. Đáng tiếc, trải qua thời gian do thiên tại, chiến tranh đến nay không có một sắc phong nào của Đào Đăng Đệ được lưu giữ lại.
Nội dụng sắc phong ngày 25 tháng 7 năm Thành Thái thứ 2 (1891) của Đào Đăng Đệ có ghi, lược dịch: “Sắc cho xã Hữu Bằng, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh phụng sự Đào công hiển tích chi thần. Đã từng linh ứng hướng lai vị hữu dự phong tư linh lịch thừa, liên mệnh diến niệm thần hưu linh phù chi thần. Chuẩn cho thờ phụng như cũ. Thần kỳ tương hựu, bảo vệ cho dân ta”.
Hiện nay, di tích liên quan đến Đào Đăng Đệ có nhà thờ họ Đào ở xóm Mãn Tâm và mộ ông ở xóm Thanh Uyên, xã Sơn Bằng, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh./.