Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Mộ và nhà thờ Phan Tử Lăng hiện nay tọa lạc tại xã Xuân Thành, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thuộc xã Đông Hội và xã Phan Xá, tổng Phan Xá, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Phan Tử Lăng, một võ tướng thời Lê – Trịnh, trước đây được thờ tại đền Tân Trù hay còn gọi là nhà thờ Đức Thánh Quan với tư cách là thành hoàng làng Tân Trù.
Vào đầu thế kỷ XVI, Đại Việt mất dần cảnh thịnh trị, kinh tế sa sút, nhân dân cực khổ, các thế lực phong kiến tranh chấp lẫn nhau. Vua tôi và bọn quý tộc ăn chơi vô độ, sao nhãng việc nước, bóc lột ức hiếp nhân dân. Sử cũ chép: “phàm sức vật hoa màu của nhân dân đều cướp cả, nhà dân ai có đồ lạ, vật quý thì đánh dấu để lấy”[1]. Lợi dụng tình hình đó, bọn quan lại địa phương mặc sức tung hoành, nhũng nhiễu, “tước đã hết mà lạm thưởng không hết, dân đã cùng mà lạm thu không cùng, thu thuế thu đến tơ tóc mà dùng của như bùn đất”[2], nhiều cuộc nổi dậy của nhân dân đã nổ ra.
Dựa vào công lao trong việc đàn áp các cuộc khởi nghĩa của nông dân và đánh bại các thế lực chống đối, năm 1527, nhận thấy sự bất lực của nhà Lê và “thần dân trong nước đã theo mình”, Mạc Đăng Dung bức vua Lê phải nhường ngôi, lập ra nhà Mạc. Sự việc này làm nhiều cựu thần phản ứng kịch liệt nổi dậy phò Lê đánh Mạc. Chiến tranh Nam Bắc triều nổ ra.
Năm 1539 – 1540, quân Nam triều đánh về trấn lị Thanh Hóa, Nghệ An và năm 1546 thì hoàn toàn làm chủ vùng đất từ Thanh Hóa trở vào. Năm 1570, nhà Mạc mở liên tiếp nhiều cuộc tiến công vào đất Thanh, Nghệ, biến vùng đất này thành bãi chiến trường ác liệt.
Phan Tử Lăng sống trong bối cảnh lịch sử đất nước Đại Việt có nhiều biến động lớn như vậy, đã ảnh hưởng đến con người và sự nghiệp của ông.
Nhà thờ Phan Tử Lăng
Phan Tử Lăng là người trí dũng song toàn, sinh ra và lớn lên tại một vùng quê nghèo bên bờ biển Đông, lúc bấy giờ còn hoang sơ, rậm rạp, ít người sinh sống, cuối thế kỷ XVI có tên là thôn Đông Hội, xã Phan Xá, tổng Phan Xá, nay là xã Xuân Thành, huyện Nghi Xuân. Hiện nay, hậu thế chỉ biết ngày mất của ông là ngày 30 tháng 2 âm lịch, chưa biết rõ năm sinh và mất của ông. Tuy nhiên, dựa trên một số tư liệu hiện lưu giữ tại nhà thờ thì ông phục vụ quân đội Lê – Trịnh từ năm 1527 đến năm 1540, sau đó nghỉ hưu, điều này đồng nghĩa với ông sinh ra vào những năm đầu của thế kỷ XVI. Ông thọ ngoài 80 tuổi, tức ông mất vào những năm của thập kỷ 80 thế kỷ đó. Cuộc đời ông nằm vào khoảng thời gian thế kỷ XVI.
Xuất thân con nhà võ, thời trai trẻ, ông nổi tiếng và người có sức khỏe, thân hình vạm vỡ, lại giỏi võ, bơi lặn hiếm ai sánh kịp. Sách Nghi Xuân địa chí ghi: “Phan Tử Lăng, người Phan Xá, lúc trẻ có sức mạnh…”[3]. Gia phả họ Phan lại chép: “… sinh thời người tráng kiện, xuất thân võ biền…”[4]. Với bản tính thông minh, dũng cảm, ông đóng góp nhiều công tích bảo vệ bình yên xóm làng. Tương truyền, bấy giờ giặc tàu ô ngoài biển thường vào quấy rối, chém giết, cướp bóc của cải, làm nhân dân điêu đứng. Căm phẩn trước tội ác của lũ bất nhân, ông lập mưu, tính kế tiêu diệt. Vào lúc đêm tối, thuyền giặc ngoài khơi, ông lặn xuống biển, tiếp cận mục tiêu chờ thời cơ tấn công. Nhân lúc giặc sơ hở, thiếu cảnh giác, ông dung khoan nhẹ nhàng, bí mật khoan thủng nhiều lỗ ở đáy thuyền. Mỗi lỗ khoan xong, ông dùng nút bần nút tạm để nước khỏi chảy vào thuyền. Cứ thế, sau khi khoan thủng hàng trăm lỗ xong, ông bắt đầu đồng loạt rút nút bần ra, nước tràn vào làm chìm thuyền. Bị tấn công bất ngờ, lũ giặc bị chết đuối. Kể từ đó dân làng yên ổn sinh sống.
Trưởng thành đến tuổi nhập ngũ cũng là lúc chiến tranh Nam Bắc triều diễn ra, ông tham gia và đứng trong đội quân Lê – Trịnh phò Lê diệt Mạc suốt 14 năm (1527 – 1540). Trong quân đội, ông luôn phát huy tố chất tài trí vốn có, đánh giặc lập công. Mới nhập ngũ, ông giữ chức Phó quản. Khi lập nhiều công lớn, ông thăng đến chức Đại tướng quân Đô chỉ huy sứ, kiêm Tổng quản.
Bấy giờ, cuộc nội chiến giữa quân Lê – Trịnh và quân Mạc đang diễn ra ở hai bên bờ sông Lam. Quân Mạc bố trí ở bờ nam, quân Trịnh bố trí ở bờ bắc. Hai bên giành giật nhau từng thước đất một, điểm chiến đấu ác liệt nhất là cồn Mộc, một bãi bồi rộng giữa sông Lam (nay thuộc thôn Hồng Lam, xã Xuân Giang – Nghi Xuân, cách cầu Bến Thủy khoảng 2km về phía tây). Trong lúc hai bên đang bất phân thắng bại, Phan Tử Lăng bèn hiến diệu kế với chúa Trịnh cho ông lặn sang bờ nam cướp lấy chiêng trống thúc quân của địch thì chắc quân Mạc sẽ tan. Được sự đồng ý của chúa Trịnh, ông thực hiện ngay. Chỉ trong một thời gian ngắn, ông lấy chiêng, trống mang về dâng chúa Trịnh. Trống thúc quân dừng, quân Mạc tán loạn rút lui. Thừa cơ, quân Lê – Trịnh dồn lên đánh mạnh. Quân Mạc thua to. Tiếp đó, ông hiến kế cử người tài bơi lặn, nhân lúc thủy triều xuống di chuyển dây neo thuyền địch từ chỗ bố trí song song sang chéo nhau. Thủy triều lên, thuyền địch va chạm mạnh vào nhau rồi chìm. Sử sách còn ghi rõ sự kiện này: “Quân Nam, Bắc đánh nhau ở cồn Mộc, ông lặn sanh bờ nam lấy chiêng, trống, lại lặn sang bờ bắc dâng cho chúa Trịnh. Vì có công, ông được phong Chỉ huy sứ”[5].
Là công thần trong chiến tranh diệt Mạc, quan chức cao cấp quân đội, về hưu, ông được nhà nước Lê – Trịnh phong thưởng 10 mẫu ruộng tại bản xã. Từ đây đến lúc qua đời, ông trở thành người chiêu dân, lập ấp, mở ra một vùng đất rộng lớn, nay bao gồm phần lớn xã Xuân Thành và một phần xã Xuân Mỹ. Đây cũng là công lao lớn nhất của Phan Tử Lăng với nhân dân, với quê hương.
Buổi đầu, nhận thấy vùng đất bản xã ven biển có nhiều tiềm năng chưa được khai phá, ông trực tiếp gom góp dân nghèo lưu tán khắp nơi từ một số xã của Thạch Hà, Thiên Lộc, Đức Thọ không có ruộng đất, về khai hoang, phục hóa. Mới đến thiếu thốn đủ thứ, mọi người được ông cung cấp dụng cụ khai hoang cùng với lương thực ăn trong vòng 6 tháng, rồi cấp giống sản xuất. Đặc biệt, khi gặp khó khăn như bệnh tật, ông cho thuốc cứu chữa. Chẳng bao lâu, một vùng đất màu mỡ mới được hình thành được ông đặt tên là làng Tân Trù, nghĩa là vùng đất mới trù phú. Năm qua năm, làng Tân Trù ngày càng rộng mở, cuộc sống trở nên dễ chịu. “Đất lành, chim đậu”, người dân khắp nơi hội tụ về làm ăn sinh sống, làng đổi tên sang thành làng Đông Hội, nghĩa là nơi đô hội về phía đông. Hiện nay, tại xã Xuân Thành còn có địa danh bàu Nhà Quan nhắc lại tích xưa.
Phan Tử Lăng mất ngày 30 tháng 2 âm lịch, an tang tại đông Bàu Lạn. Dân làng lập đền thờ phụng tại đền Tân Trù lấy ông là thành hoàng làng, trích 2 mẫu ruộng hàng năm hương khói và gọi ông với cái tên “Đức Thánh Quan” tôn kính.
Công lao “hộ quốc tỷ dân” lớn đến nỗi hình ảnh ông luôn ngự trị trong tâm thức mỗi người dân nơi đây với tư cách là vị thần thánh linh thiêng bảo vệ dân lành khỏi thiên tai, địch họa dẫu rằng ông không còn trên cõi trần thế này nữa. Giai thoại xưa kể rằng: Lúc bấy giờ, rừng rậm bao phủ quanh làng, có một con hổ thường về làng giết hại người dân. Dân trong làng không thể triệt hạ được. Họ bèn thắp hương cầu khấn thành hoàng làng xin làng giúp đỡ trừ khử hổ dữ. Bổng nhiên hiệu nghiệm, hổ bổng trở nên ngoan ngoãn sa vào vòng vây của nhân dân.
Nhận thấy công lao của ông, nhiều triều đại phong kiến đã ban sắc phong với những mỹ tự cao quý: chính thần, dực bảo trung hung linh phù chi thần, đoan túc tôn thần.
Hiện nay, tại nhà thờ còn bài vị ghi lại công trạng của ông: “Thỉ tổ bản cảnh thành hoàng tiền phó quản lĩnh chức, gia phong Đại tướng quân Đô chỉ huy sứ, kiêm quản tổng, hậu trợ dân. Phan Hùng Quý minh công, tôn uy lăng, phụng gia tặng chính thần, tái gia phong dực bảo trung hung linh phù tôn thần” (dịch là: Vị thủy tổ bản cảnh thành hoàng, trước lĩnh chức Phó quản, phong Đại tướng quân Đô chỉ huy sứ, kiêm Tổng quản, hậu giúp nhân dân. Hiệu bụt Phan Hùng Quý Minh công, tên húy Lăng. Triều Lê tặng phong chính thần, sau lại gia phong dực bảo trung hung linh phù chi thần).
Hàng năm, cứ đến ngày kỵ của ông, lễ khai hạ mồng 7 tháng giêng và lễ rải áo ngày 25 tháng 12 âm lịch, dân làng tổ chức tế lễ tưởng nhớ tới công ơn và cầu mong cho “phong hòa, vũ thuận”, dân làng yên ổn làm ăn, sinh sống. Xong phần lễ, đến phần hội. Hội đền xưa thường diễn trò kiều, xít đu… tạo bầu không khí sinh hoạt văn hóa tinh thần đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần nuôi dưỡng truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, thắt chặt tình đoàn kết cộng đồng làng xã.
Hiện nay, di tích mộ và nhà thờ Phan Tử Lăng tọa lạc trong một khuôn viên rộng xung quanh được bao bọc bởi ruộng lúa và khu dân cư. Nhìn tổng thể nhà thờ ngoảnh về hướng Tây. Các hạng mục kiến trúc chính được bố trí đăng đối trên trục thần đạo Tây – Đông.
Bước vào di tích, chúng ta bắt gặp hệ thống tường bao quanh, cao 1,10m, dày 0,20m. Cổng là hạng mục công trình xây mới với 2 cột nanh, mỗi cột cao 2,9m, chia thành 2 phần: thân và đầu. Thân hình trụ vuông, tiết diện 0,35m x 0,35m, cao 2,35m, xung quanh trang trí đường diềm gờ nổi, tạo sự thanh thoát, gọn gang. Hai đầu cột đặt nghê sứ chầu nhau, tạo vẻ uy nghiêm cho di tích.
Khoảng cách giữa cổng và hạ điện láng nền xi măng sạch sẽ, giữa có tắc môn là bình phong án ngữ trước lối ra vào. Ở giữa đắp nổi con hổ dáng vẻ oai nghiêm. Theo quan sát, các đền thờ, nhà thờ, miếu mạo thờ các vị võ tướng, võ quan, tắc môn thường đắp nổi hình con hổ như nhà thờ Phạm Tiêm (thị xã Kỳ Anh), đền thờ Nguyễn Đình Quyền (thành phố Hà Tĩnh), nhà thờ Nguyễn Phi Sài (huyện Thạch Hà), đền thờ Đặng Đình An (huyện Nghi Xuân).
Qua tắc môn là đến hạ điện. Đơn nguyên kiến trúc bố trí chiều ngang, đăng đối trên trục thần đạo, diện tích mặt bằng hơn 20m2, nền láng xi măng. Mái nhà có 8 hoành, 1 thượng lương rải đều khắp mặt mái, trên có cầu phong và mèn bố trí vừa đủ để lợp ngói đất nung. Hạ diện cao 3m, xây bít đốc 2 đầu dày 0,15m. Phía trước xây tường bao khá thấp ở 2 gian bên cao 1m. Hai đầu tường bao kết thúc bởi những cột quyết hình trụ vuông vươn lên cao 1,55m đỡ lấy hai bẩy hiên vì giữa hạ điện. Cột quyết được ghi đôi câu đối:
Phiên âm:
Huy hoàng miếu mạo kim y thỉ
Hiển hách linh thanh cổ thịnh truyền.
Dịch là:
Huy hoàng miếu mạo nay theo trước
Chói lọi linh thiêng trước vẫn truyền.
Cột nay hai bên hạ điện cũng có đôi câu đối:
Phiên âm:
Đống vụ đỉnh tân quang thế đức
Phiên tường phận sức hiển thần linh.
Dịch là:
Nhà cửa dựng xây sáng ngời đức tổ
Phiên tường tô điểm rạng rỡ công thần.
Hạ điện chia làm 4 vì, 3 gian, 2 gian bên bằng nhau, gian giữa lớn hơn 2 gian còn lại. Kết cấu khung hạ điện bằng gỗ mít với 8 cột hình trụ tròn, đứng trên đá kê chân cột vuông góc với mặt nền. Kết cấu chiều ngang là bộ vì, tạo theo kiểu vì kẻ, phong cách cuối thời Nguyễn. Không vì nách, chỉ có vì nóc. Câu đầu nối đầu các cột lại với nhau, đứng trên lưng nó là cột trốn chống lên điểm tiếp nối của 2 kẻ và 2 cột cái, không có cột hiên, cột quân, được nối lại với nhau qua mộng. Kết cấu chiều dọc bằng các xà dọc tạo thành bộ khung cùng với các bức tường tứ phía chịu lực cho toàn bộ ngôi nhà. Niên đại hạ điện: xây dựng năm 1923, tu bổ lại năm 1990. Bố trí nội thất gồm hương án gỗ sơn son, thếp vàng, được trang trí khá công phu với các đề tài tứ linh, hổ phù, hoa lá... Phía trên hương án đặt các đồ tế khí như lư hương, bình hòa, cọc nến...
Qua hạ điện đến thượng điện. Đây là ngôi nhà bố trí theo chiều dọc, đăng đối trên trục thần đạo, diện tích mặt bằng hơn 20,40m2. Nền láng xi măng. Mái được 8 hoành, 1 thượng lương rải đều. Rui bố trí đều nhau. Trên rui lợp ngói mũi đất nung. Thượng điện cao 3,20m, xây bít đốc. Phía trước có chao được 4 cột quyết hình trụ vuông nâng đỡ. Trên cột quyết ghi 2 đôi câu đối nhau sau:
Phiên âm:
Quý Hợi niên khởi tạo
Nhâm Tuất nguyệt hoàn công
Dịch nghĩa:
Năm Quý Hợi xây dựng
Tháng Nhâm Tuất hoàn thành
Hai cột quyết còn lại ghi:
Phiên âm:
Minh đức lai dã viễn
Thần công tịch nhược thùy
Dịch là:
Đức sáng lại nay tuy xa cách
Công thần dư phúc vãn âm thầm.
Trong phía thượng điện, hai bên ban thờ Phan Tử Lăng có đôi câu đối:
Phiên âm:
Hổ khảm dương oai triều đại tướng
Long chương tích mệnh quốc trung thần.
Dịch là:
Trông cọp dương oai triều phong đại tướng
Sắc rồng ban cấp nước tặng trung thần
Về kết cấu bộ khung, thượng điện chia làm 1 chái, 2 gian, bằng gỗ mít và giả gỗ khá đơn giản gồm 4 cột hình trụ tròn đứng trên đá kê chân cột. Kết cấu chiều ngang là bộ vì, được tạo theo kiểu vì kẻ, phong cách cuối thời Nguyễn. Không vì nách, chỉ có vì nóc hình tam giác cân. Câu đầu là thanh gỗ nối hai đầu cột. Về bố trí nội thất, gian trong thượng điện là nơi dùng bố trí ban thờ thờ Phan Tử Lăng. Phía trên có long ngai, bài vị sơn son thếp vàng ghi lại sự nghiệp của ông và các đồ tế khí khác như cọc sáp, lọ hoa, đao. Niên đại xây dựng năm 1923.
Mộ Đại tướng quân Đô chỉ huy sứ Phan Tử Lăng cách đền thờ cũ khoản 300m, cách nhà thờ hiện nay 1km về hướng Tây thuộc Bàu Lạn, xóm 4, xã Xuân Thành. Mộ ngoảnh về hướng Nam, xây dựng trên cồn đất nhỏ, diện tích 24m2, xung quanh tiếp giáp ruộng lúa. Diện tích mặt bằng 3,20m x 4m. Bệ mộ cao 0,50m. Tất cả xây với gạch, vôi vữa. Trên mộ có một số chữ Hán đã mờ.
Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học nổi bật như trên, mộ và nhà thờ Phan Tử Lăng đã được UBND tỉnh Hà Tĩnh xếp hạng là di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh tại Quyết định số 1774/QĐ – UBND, ngày 29 tháng 6 năm 2007./.
Tài liệu tham khảo:
1. Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên và nhiều tác giả, Tập IV, Nxb KHXH, Hà Nội.
2. Địa chí huyện Nghi Xuân, Lê Văn Diễn Soạn, UBND huyện Nghi Xuân.
3. Lịch sử Việt Nam, Tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998.
4. Từ điển Hà Tĩnh, Bùi Thiết chủ biên, Sở Văn hóa – Thông tin Hà Tĩnh, năm 2000.
5. Kiến trúc Việt Nam qua các triều đại, Nguyễn Đình Toàn chủ biên, Nxb Xây dựng.
Chú thích:
[1] Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên và nhiều tác giả, T.IV, Nxb KHXH, Hà Nội, tr.48.
[2] Sđd.
[3] Nghi Xuân địa chí, Lê Văn Diễn soạn, UBND huyện Nghi Xuân, tr.173.
[4] Gia phả họ Phan lưu tại nhà thờ Phan Tử Lăng, xã Xuân Thành, huyện Nghi Xuân.
[5] Sđd, tr.173.