Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Phong trào Tây Sơn là một phong trào khởi nghĩa nông dân cuối thế kỷ XVIII do 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ lên Tây Sơn thượng đạo (nay thuộc huyện An Khê, tỉnh Gia Lai) lập căn cứ, dựng cờ khởi nghĩa, chỉ huy, tổ chức lãnh đạo đánh tan các tập đoàn phong kiến Chúa Nguyễn ở Đàng Trong và nhà Lê – Trịnh ở Đàng Ngoài; đánh thắng quân Xiêm ở Tây Nam Bộ và 29 vạn quân Thanh ở Bắc Hà, lập nên nhà Tây Sơn, thực hiện nhiều cải cách tiến bộ.
Vào cuối thế kỷ XVIII, chế độ phong kiến Việt Nam đi đến thoái trào. Các tầng lớp thống trị đã tha hóa, ra sức bóc lột, lấn chiếm ruộng đất, thu nhiều loại thuế, đẩy nhân dân vào cảnh khốn khổ. Phong trào Tây Sơn nổ ra, đại diện cho tầng lớp thấp hèn trong xã hội phong kiến. Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn bảo vệ tầng lớp bị áp bức, lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo, xóa nợ cho nông dân, bãi bỏ nhiều loại thuế bởi thế nông dân tham gia rất đông.
Khi quân Thanh xâm lược Việt Nam, Nguyễn Huệ lên ngội Hoàng đế ở Phú Xuân, lấy niên hiệu Quang Trung và kéo quân ra Bắc Hà tiêu diệt ngoại xâm. Khi qua Nghệ An (bao gồm cả Hà Tĩnh ngày nay), Nguyễn Huệ dừng chân chiêu mộ đinh tráng chống giặc. Nhiều trai tráng xung phong tòng quân. Sử chép: “Nghe tin Nguyễn Huệ sắp đánh to với quân Thanh, nhân dân Nghệ Tĩnh ai cũng vui mừng nhảy nhót kéo nhau đi tòng quân…”
Nhiều người Hà Tĩnh được tham gia chỉ huy đội quân Tây Sơn như: Hồ Phi Chấn, Đặng Hữu Cán, Hồ Văn Hoa, Nguyễn Đăng Minh, Nguyễn Hữu Biện, Nguyễn Hữu Độ, Nguyễn Tiến Thiệu, Dương Văn Tào… và các sĩ phu tiêu biểu như La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, Phan Huy Ích.
Các di tích lưu niệm danh nhân tham gia phong trào Tây Sơn còn sót lại chủ yếu tập ở Thạch Hà, Kỳ Anh, Can Lộc, Hương Khê, Cẩm Xuyên, phần lớn đều được xếp hạng di tích, trong đó 8 di tích cấp tỉnh, 1 di dích quốc gia. Nội dung di tích phản ánh hành trạng, quá trình tham gia phong trào Tây Sơn của các nhân vật lịch sử tiêu biểu ở Hà Tĩnh.
Các di tích lưu niệm danh nhân liên quan đến phong trào Tây Sơn ở Hà Tĩnh là di sản vật thể có giá trị lớn về lịch sử, văn hóa và khoa học. Việc nâng cao công tác bảo tồn và phát huy giá trị là hết sức cần thiết nhằm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương có di tích.
1. Di tích lưu niệm danh nhân liên quan đến phong trào Tây Sơn ở tỉnh Hà Tĩnh
1.1. Đền thờ La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp
Đền thờ La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp xưa thuộc thôn Mật, xã Nguyệt Ao, tổng Lai Thạch, huyện La Sơn, xứ Nghệ An nay thuộc xã Kim Song Trường, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
Nguyễn Thiếp (1723 – 1804) sinh năm Quý Mão (1723), niên hiệu Bảo Thái thứ 4, trong một gia đình có truyền thống văn học và khoa bảng, húy Minh, tự Quang Thiếp, hiệu La Sơn Phu Tử, người đời gọi là Hạnh Am tiên sinh, Nguyệt Ao tiên sinh, Lục Niên tiên sinh. Thủa thiếu niên, “thiên tư sáng suốt, học rộng, hiểu sâu”. Năm Quý Hợi (1743), ông thi đỗ Hương giải. Chán với thời cuộc, ông không làm quan mà sống ẩn dật, đọc sách. Năm Mậu Thìn (1743), thi Hội đỗ Tam trường, rồi làm Huấn đạo Anh Đô, Tri huyện Thanh Chương. Năm Mậu Tý (1767), ông treo ấn từ quan.
La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp được 3 lần Quang Trung Nguyễn Huệ mời ra giúp nước, hiến kế sách đánh giặc. Năm 1786, ra Bắc Hà lần thứ nhất, vua Quang Trung biết đến găp Nguyễn Thiếp và nhiều lần viết thư mời cụ giúp đỡ. Năm 1788, vua Quang Trung ra Bắc Hà lần thứ 2, viết thư mời gặp Nguyễn Thiếp. Cuối năm 1788, lần thứ 3 ra Bắc Hà, vua Quang Trung mời Nguyễn Thiếp làm quân sư góp công lớn đánh tan 29 vạn quân Thanh xâm lược. Tôn Sĩ Nghị bỏ chạy về nước. Thành Thăng Long sạch bóng quân thù. Sau ngày chiến thắng, vua Quang Trung mời ông phục trách trông cois việc thi cử, chọn đất lập đô và làm Viện trưởng Viện Sùng Chính.
Nguyễn Thiếp là một nhà hiền triết có nhiều đóng góp đối với nhà Tây Sơn. Đức hạnh thanh cao, trí tuệ uyên bác và yêu nước nồng nàn, ông góp công giúp vua Quang Trung giải phóng đất nước và chấn hưng dân tộc.
Đền thờ Nguyễn Thiếp trước đây năm trong khu dân cư cao ráo, bên cạnh trục đường liên xã. Đền là một ngôi nhà hình chữ Nhất (一), có kết cấu vì kèo, mái lợp ngói mũi, chia làm 3 gian. Mặt trước là hệ thống cửa panô. Nối các vì lại với nhau là hệ thống xà dọc ăn mộng vào đầu các cột tạo thành bộ khung chịu lực cho toàn bộ công trình. Trang trí kiến trúc tập trung ở xà thượng, xà hạ, bẩy hiên. Năm 1994, Đền thờ La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp được xếp hạng di tích quốc gia. Năm 2016, di tích được tu bổ và tôn tạo bao gồm đền thờ cũ, xây mới đền thờ Nguyễn Thiếp, tả vu, hữu vu, am hóa vàng, tôn tạo tứ trụ, tường rào, tắc môn, sân vườn.
Bái đường Đền thờ Nguyễn Thiếp
Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học nổi bật, Đền thờ La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích quốc gia tại Quyết định số 920/QĐ-BVHTT ngày 20/7/1994.
1.2. Mộ và Nhà thờ Hồ Phi Chấn
Mộ và Nhà thờ Hồ Phi Chấn xưa thuộc xã Chỉ Châu, tổng Hạ Nhất, huyện Thạch Hà, phủ Hà Hoa, tỉnh Hà Tĩnh nay là thôn Đông Văn, xã Thạch Văn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
Hồ Phi Chân sinh ra ở giáp Trung Thủy, tổng Hạ Nhất, trong gia đình có cha là Hồ Đăng Dung, làm quan dười thời vua Lê Hiển Tông, niên hiệu Cảnh Hưng (1740 – 1786) trông coi vận chuyển lương thảo và được phong chức huyện thừa. Hồ Phi Chấn, tên chữ là Hiển. Thửa nhỏ, ông có sức khỏe, thông minh, cứng cõi và thương người.
Khi Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc Hà đánh quân Thanh, Hồ Phi Chấn tham gia. Năm Quang Trung thứ 5 (1792), do lập nhiều công tích trong chiến trận, ông được phong Cai cơ, Anh liệt tướng quân, Chỉ huy sứ, tước Hiền Điển bá. Nguyễn Quang Toản lên ngôi, lấy niên hiệu là Cảnh Thịnh, cũng trọng dụng ông vì lập nhiều chiến công và được phong đến chức Vệ quốc tướng quân, Đô đốc đồng tri, tước Hiển Quang hầu.
Khi quân Nguyễn Anh ngày càng lớn mạnh đánh thắng quân Tây Sơn, ông bỏ về quê, ngấm ngầm nuôi chí lâu dài. Nguyễn Ánh biết ông là tướng tài, thuyết phục ông ra phục vụ nhà Nguyễn nhưng ông khước từ. Sau đó, ông bị bắt đi đày ở Đồn Vàng rồi mất ở đó, thọ 62 tuổi.
Nhà thờ Hồ Phi Chấn xưa là ngôi miếu nhỏ, lợp tranh thường gọi là “Điện Ông Đô”. Đến năm Bảo Đại thứ 11 (1936) được xây dựng lại bằng gạch và vữa tam hợp. Phía trước có tắc môn đắp hình hổ và có nghi môn. Hiện nay, di tích được xây dựng lại bao gồm: Nghi môn, tắc môn, hạ điện và thượng điện.
Mộ Hồ Phi Chấn hình chữ nhật, xây thành 3 bậc, toàn bộ ốp đá xanh. Nhà bia mộ trổ cửa vòm, gắn bia ghi dòng chữ: Hồ Phi Chấn bằng chữ Quốc Ngữ.
Mộ và Nhà thờ Hồ Phi Chấn được UBND tỉnh Hà Tĩnh xếp hạng là di tích cấp tỉnh tại Quyết định số 44/QĐ-UBND ngày 09/01/2008.
1.3. Nhà thờ Hồ Văn Hoa
Nhà thờ Hồ Văn Hoa thuộc thôn Thổ Hoàng, xã Phương Mỹ, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Trước 1945 là xã Phương Trạch, tổng Phương Điền. Hồ Văn Hoa sinh ra và lớn lên vào khoảng nửa cuối thế kỷ XVIII. Thửa nhỏ, khí chất thông minh, lại có sức khỏe. Lớn lên được cử làm chỉ huy các đạo quân bảo vệ các vùng phía tây của đất nước.
Lúc bấy giờ, diễn ra cuộc khởi nghĩa do ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ. Lực lượng tham gia không chỉ có nông dân mà còn có cả các sĩ phu như La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích.
Theo tiếng gọi của phong trào Tây Sơn, Hồ Văn Hoa đã xung phong tham gia khởi nghĩa từ lúc đầu. Trong chiến dịch thần tốc tiến quân ra Bắc Hà tiêu diệt 29 vạn quân Thanh năm Kỷ Dậu, Hồ Văn Hoa góp công không nhỏ giúp Nguyễn Huệ tuyển mộ hàng vạn binh hùng, tướng mạnh ở Nghệ Tĩnh, góp phần thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến chống quân Thanh xâm lược.
Trong giai đoạn cuối cùng của nhà Tây Sơn, triều chính lục đục, nghi kỵ lẫn nhau, nhưng Hồ Văn Hoa vẫn là người trung thành, tận tụy bảo vệ vua tôi, giữ yên triều chính.
Năm Canh Thân (1800), Nguyễn Ánh trả thù quân Tây Sơn. Nguyễn Quang Toản cùng một số tướng lĩnh bị hành hình trong đó có Hồ Văn Hoa.
Di tích Nhà thờ Hồ Văn Hoa xây dựng năm Tân Tỵ, niên hiệu Bảo Đại thứ 16 (1941), tọa lạc ở khu dân cư. Di tích là ngôi nhà gỗ mít tứ trụ 3 gian, ngoảnh mặt về hướng Tây; 3 mặt đông, nam, bắc được xây tường bao. Kết cấu chiều ngang kiểu vì kèo kép. Liên kết chiêu ngang bằng các thượng và hạ. Các cột hình trụ tròn “đầu cán cân, chân quân cờ”. Nối các vì theo chiều dọc với nhau là các xà dọc ăn mộng đuôi cá vào cột quân và cột cái, tạo thành bộ khung chịu lực vững chãi.
Nhà thờ Hồ Văn Hoa còn là nơi lưu giữ các tài liệu hiện vật gốc như sắc phong, câu đối liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của danh nhân, góp phần nghiên cứu phong trào Tây Sơn.
Nhà thờ Hồ Văn Hoa được UBND tỉnh Hà Tĩnh xếp hạng di tích cấp tỉnh tại Quyết định số 1800/QĐ-UBND ngày 22/6/2010.
1.4. Mộ và Đền thờ Nguyễn Đăng Minh
Đền thờ Nguyễn Đăng Minh, còn gọi là Đền Đức Đại Vương, xưa thuộc làng Tăng Phú, xã Vĩnh Lại, tổng Mỹ Duệ, huyện Cẩm Xuyên, phủ Thạch Hà, nay thuộc xóm 7, xã Cẩm Vịnh, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.
Nguyễn Đăng Minh là một nhân vật lịch sử từng theo Nguyễn Huệ đánh tan 29 vạn quân Thanh xâm lược. Ông còn có tên là Nguyễn Đăng Dinh, sinh năm Canh Thìn (1760) tại làng Tăng Phú. Năm 26 tuổi ông tham gia phong trào Tây Sơn đánh quân Xiêm. Nhờ lập nhiều công tích, ông được phong chức cai đội. Ông là người từng tham gia đại phá quân Thanh vào mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789). Trong một trận đánh ông bị thương và mất ngày 8/11/1791, lúc mới 32 tuổi.
Nhớ tới công ơn của ông đối với đất nước, dân làng Tăng Phú đã lập đền thờ thờ ông vào năm Quý Sửu (1793).
Di tích Mộ và Đền thờ Nguyễn Đăng Minh nằm trong khu dân cư, có kiểu kiến trúc tiền miếu, hậu lăng, ngoảnh hướng Tây Bắc, gồm các đơn nguyên kiến trúc: Hồ bán nguyệt, hệ thống cột nanh, tam quan, tắc môn, sân, hạ điện, điện tế trời đất, tả quân hữu linh, hệ thống tường dắc thượng điện và khu lăng mộ với nhiều câu đôi ca ngợi công đức của Nguyễn Đăng Minh.
Mộ và Đền thờ Nguyễn Đăng Minh được UBND tỉnh Hà Tĩnh xếp hạng di tích cấp tỉnh tại Quyết định số 412/QĐ-UBND ngày 14/3/2005.
1.5. Nhà thờ Nguyễn Hữu Biện
Nhà thờ Nguyễn Hữu Biện xưa thuộc tổng Đông, phủ Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, nay là thôn Bắc Tiến, xã Thạch Ngọc, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
Nguyễn Hữu Biện (1758 – 1843), sinh ra trong một gia đình có truyền thống thượng võ, cha ông từng làm Cấm vệ quân cho nhà Lê trung hưng. Ông có hoài bảo lớn, giỏi võ nên muốn lập thân giúp đời. Khi phong trào Tây Sơn diễn ra, Nguyễn Huy Biện tham gia và được phong chức Chánh Hiệp quản vào đội tượng binh, huấn luyện voi chiến tại Tuần Tượng, nay là xã Kỳ Bắc, huyện Kỳ Anh, góp công lớn đại phá 29 vạn quân Thanh xâm lược, năm Kỷ Dậu (1789). Sau khi nhà Tây Sơn sụp đổ, Nguyễn Hữu Biện xuất ngũ, về quê lánh nạn. Tại quê hương, ông có công khai hoang phục hóa, phát triển kinh tế, xã hội.
Nhà thờ Nguyễn Hữu Biện được xây dựng dưới thời Nguyễn, có khi đã trở thành phế tích. Năm 2013, nhà thờ được khôi phục lại ở vị trí cũ với các đơn nguyên kiến trúc: nghi môn, tắc môn, ban thờ thiên và thượng điện.
Nhà thờ Nguyễn Hữu Biện được UBND tỉnh Hà Tĩnh xếp hạng di tích cấp tỉnh tại Quyết định số 2500/QĐ-UBND ngày 28/8/2017.
1.6. Nhà thờ Đặng Hữu Cán
Nhà thờ Đặng Hữu Cán xưa thuộc thôn Chi Phan, tổng Đông, phủ Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, nay là xã Việt Tiến, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
Đặng Hữu Cán sinh năm Mậu Ngọ (1738). Ông gia nhập quân đội Lê – Trịnh, giữ chức Chánh suất đội trưởng. Nhà Lê trung hưng suy yếu, theo tiếng gọi của Bắc Bình vương Nguyễn Huệ, ông gia nhập nghĩa quân Tây Sơn và được các quân thần ủng hộ. Ông trấn ải ở phía bắc vùng Nam Sông Lam ngày nay. Trong quân đội, ông được Nguyễn Huệ tin tưởng ở một cuộc thi võ tại xã An Lạc (nay là xã Xuân An, huyện Nghi Xuân). Sau đó, ông theo Nguyễn Huệ về Thuận Hóa. Trong chiến dịch thần tốc đánh quân Thanh năm Kỷ Dậu (1789), ông có công chiêu mộ quân tại Nghệ An. Ông còn lập công tiêu diệt đạo quân Điền Châu của Sầm Nghi Đống. Năm 1802, ông mất tại Phú Xuân (Huế).
Nhà thờ Đặng Hữu Cán tọa lạc trong khu dân cư, cách di tích quốc gia Đền Nen 800m. Di tích ngoảnh về hướng Tây Nam bao gồm hệ thống tường rào, miếu thờ “Vạn cổ hương”, miếu tổ cô, nhà thờ.
Nhà thờ Đặng Hữu Cán được UBND tỉnh Hà Tĩnh xếp hạng là di tích cấp tỉnh tại Quyết định số 1973/QĐ – UBND, ngày 14/8/2006.
1.7. Mộ và Nhà thờ Nguyễn Tiến Thiệu
Nhà thờ Nguyễn Tiến Thiệu xưa thuộc làng Hữu Lạc, xã Cấp Dẫn, tổng Cấp Dẫn, phủ Hà Hoa, tỉnh Hà Tĩnh, nay là thôn Hợp Tiến, xã Kỳ Bắc, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.
Nguyễn Tiến Thiệu sinh năm Quý Vị (1763) tại Phú Xuân (Huế), bố là Nguyễn Tiến Nghị làm chức Ty tướng thần lại dưới triều Chúa Nguyễn. Ông là người cương trực, thông minh và yêu thích võ nghệ. Khi quân Tây Sơn tiến ra Bắc, ông gia nhập nghĩa quân và được Nguyễn Huệ giao nhiệm vụ huấn luyện và điều khiển đàn voi chiến, đây là lực lượng tượng binh quan trọng trong đội quân Tây Sơn tiến quân ra Bắc Hà, đánh tan quân Trịnh thống nhất đất nước. Nguyễn Tiến Thiệu được cử ở lại Bắc Hà đóng quân ở Kỳ Hoa, trấn thủ trại Tuần Tượng. Khi quân Tây Sơn ra Bắc Hà tiêu diệt 29 vạn quân Thanh, đội tượng binh của Nguyễn Tiến Thiệu cũng tham gia đánh trận và góp công lớn vào chiến thắng cuối cùng. Sau đó, Nguyễn Tiến Thiệu về lại Tuần Tượng tiếp tục huấn luyện voi, tổ chức khai hoang lập làng và mất năm 1827.
Nhà thờ Nguyễn Tiến Thiệu năm trong khu dân cư đông đúc, ngoảnh về hướng Tây Nam, bao gồm: Nghi môn, tắc môn và nhà thờ. Nghi môn là 2 cột nanh hình trụ vuông, trên gắn nghê chầu. Tắc môn trang trí long mã cách điệu. Nhà thờ 3 gian, 2 hồi, theo kiểu tứ trụ chồng diêm. Thượng ốc trang trí rồng, giữa đắp hổ phù đội mặt nguyệt. Kết cấu vì kèo làm bằng gỗ mít chạm trổ họa tiết hoa, lá sen, tùng, lộc, long, vân, điểu thời Nguyễn.
Mộ Nguyễn Tiến Thiệu ở Cụp Con Cua, xóm Liên Sơn, xã Kỳ Phong, huyện Kỳ Anh, ngoảnh theo hướng Tân Ất, có tường dắc bao quanh.
Mộ và Nhà thờ Nguyễn Tiến Thiệu được UBND tỉnh Hà Tĩnh xếp hạng di tích cấp tỉnh năm 2009.
1.8. Mộ và Đền thờ Dương Văn Tào
Mộ và Nhà thờ Dương Văn Tào xưa thuộc làng Thượng Đoạn, tổng Mỹ Duệ, huyện Cẩm Xuyên, nay là thôn 8, xã Cẩm Mỹ, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.
Dương Văn Tào quê xã Mỹ Duệ, sinh ra trong một gia đình nghèo. Hướng ứng lời kêu gọi của Bắc Bình vương Nguyễn Huệ, ông chiêu mộ được nhiều trai tráng tham gia khởi nghĩa và trở thành vị tướng có tài, được phong đến chức đô đốc.1
Trước khi phong trào Tây Sơn diễn ra, ông chiêu mộ đội quân địa phương chống lại chính quyền Lê – Trịnh vào nửa cuối thế kỷ XVIII. Sau khi quân Tây Sơn kéo ra Bắc Hà, ông đem quân gia nhập và được phong đô đốc. Ông tổ chức tiêu diệt đồ đảng Nguyễn Tiến Lâm chống quân Tây Sơn tại Quy Hợp.
Khi Nguyễn Ánh tiến quân ra vùng Quảng Bình để chống quân Tây Sơn, Dương Văn Tào chốt giữ ở Đèo Ngang. Nhưng do tương quan lực lượng quá chệnh lệch, nên ông bèn rút về quê ẩn náu, rồi mất ở đó, kết thúc sự nghiệp phò giúp nhà Tây Sơn..
Đền thờ Dương Văn Tào ngoảnh về hướng Đông gồm nghi môn, tắc môn và thượng điện. Nghi môn là 2 cột nanh hình trụ vuông, trên đắp nghê chầu, mặt trước đắp rồng cuộn. Tắc môn đắp hình chữ Thọ (壽) cách điệu và đắp rồng, phượng cầu kỳ. Thượng điện 3 gian, kết cấu vì kèo, xà dọc bê tông cốt thép giả gỗ tạo thành bộ khung vững chãi mang phong cách thời Nguyễn. Mặt tiền thượng điện là cửa pa nô gỗ dổi. Thượng ốc đắp rồng chầu mặt nguyệt cách điệu.
Mộ Dương Văn Tào đặt ở Động Lối gần hồ Kẻ Gỗ thuộc xã Cẩm Mỹ, nằm dưới tán rừng thông, được ốp đá màu hồng gắn bia đá khắc chữ: Phần mộ Dương Văn Tào – Đại đô đốc oanh liệt Dương tướng quân, húy Dực.
Mộ và Đền thờ Dương Văn Tào được UBND tỉnh Hà Tĩnh công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh tại Quyết định số 3423/QĐ-UBND, ngày 25/10/2011.
2. Thực trạng công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lưu niệm danh nhân liên quan đến phong trào Tây Sơn ở Hà Tĩnh
Di tích lưu niệm danh nhân liên quan đến phong trào Tây Sơn có số lượng không lớn so với tổng di tích được kiểm kê trên địa bàn Hà Tĩnh. Từ khi Luật Di sản văn hóa được ban hành năm 2000, ngành văn hóa, thể thao và du lịch có đầy đủ cơ sở pháp lý để bảo tồn và phát huy giá trị di tích. Hiện nay, Hà Tĩnh đã có 1800 di tích được kiểm kê toàn tỉnh, trong đó có 550 di tích đã được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh, 86 di tích quốc gia, 2 di tích quốc gia đặc biệt. Theo thống kê của Bảo tàng tỉnh, di tích lưu niệm danh nhân liên quan đến phong trào Tây Sơn ở Hà Tĩnh hiện nay có gần 10 di tích được xếp hạng cấp tỉnh và quốc gia. Các di tích được xếp hạng thuộc diện quản lý Nhà nước đang được chăm sóc, bảo quản và phát huy giá trị tốt. Hàng năm, ngân sách nhà nước cấp hàng chục tỷ để tu bổ, tôn tạo chống xuống cấp. Ngoài ra, công tác xã hội hóa trong bảo tồn di tích cũng có nhiều điểm đáng khích lệ. Nhiều di tích được các doanh nghiệp lớn, chủ sở hữu di tích và nhân dân huy động kinh phí để đầu tư tu bổ tôn tạo góp phần biến di sản văn hóa vật thể này trở thành nguồn lực, tài nguyên văn hóa phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Sau khi được xếp hạng, các di tích tuy có chủ sở hữu khác nhau nhưng đều được chính quyền cấp xã trực tiếp quản lý, ngành văn hóa hướng dẫn chuyên môn theo Luật Di sản văn hóa. Ngành văn hóa thường xuyên tổ chức các đợt thanh, kiểm tra các hoạt động tại di tích, kịp thời chấn chỉnh các hoạt động làm sai lệch di tích gốc, mê tín dị đoan… ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục, vi phạm Luật Di sản văn hóa. Hàng năm, Cục Di sản văn hóa tổ chức tốt các hoạt động tập huấn nghiệp vụ về di sản, giúp các công chức, di sản viên cập nhật kiến thức phục vụ tốt nhiệm vụ công tác.
Các di tích lưu niệm danh nhân liên quan đến phong trào Tây Sơn ở Hà Tĩnh chủ yếu chủ sở hữu cá nhân và dòng họ nên việc huy động nguồn lực xã hội hóa là chủ yếu, có chăng, Nhà nước chỉ hỗ trợ thêm nhằm động viên dòng họ trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di tích. Các di tích thường có niên đại hàng trăm năm nên tình trạng xuống cấp là không tránh khỏi, việc tu bổ tôn tạo đúng khoa học bảo tồn di tích cũng chưa thực sự đáp ứng đầy đủ và bài bản dẫn đến một số di tích gặp khó khăn trong phát huy giá trị. Nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao ở địa phương còn ít cũng gây khó khăn không nhỏ trong quá trình tu bổ và tôn tạo và phát huy gia trị di tích. Việc kết nối các di tích thành một hệ thống trên toàn tỉnh để phục vụ phát triển du lịch tâm linh, du lịch văn hóa nhằm tìm hiểu phong trào Tây Sơn ở Hà Tĩnh cũng chưa thực hiện được. Tuy có nhiều cố gắng nhưng việc chuyển đổi số trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích còn manh mún, tự phát, chất lượng không đồng đều dẫn đến việc quảng bá, tiếp cận, tìm hiểu nội dung di tích bộc lộ nhiều hạn chế.
3. Các giải pháp tăng cường công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di tích lưu niệm danh nhân liên quan đến phong trào Tây Sơn ở Hà Tĩnh
- Bảo tàng hóa các hoạt động của di tích là giải pháp cần thực hiện trong giai đoạn hiện nay. Đó là việc áp dụng các kiến thức bảo tàng học trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di tích trên cơ sở tôn trọng, coi di tích và hiện vật gốc gắn liền với di tích là đối tượng ưu tiên trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích. Áp dụng các nghiệp vụ bảo tàng như: Sưu tầm, kiểm kê – tư liệu hóa, bảo quản – phục chế, trưng bày tuyên truyền và xây dựng chương trình giáo dục, trong đó việc sưu tầm bổ sung các tài liệu hiện vật liên quan đến hành trạng, cuộc đời và sự nghiệp của danh nhân được coi là khâu công tác đầu tiên làm cơ sở cho các khâu công tác khác. Tiếp đó, công tác kiểm kê khoa học – tư liệu hóa di tích gốc và hiện vật gốc sẽ góp phần bổ sung thêm những thông tin nội dung lịch sử di tích và hiện vật biến di tích, hiện vật “chết” thiếu thông tin thành di tích, hiện vật “sống” chứa nhiều thông tin thông qua việc nghiên cứu đa ngành: dân tộc học, Hán Nôm học, di sản học, sử học và khảo cổ học. Từ đó, đề ra phương án bảo quản nhằm kéo dài tuổi thọ di tích và hiện vật gốc đến mức tối đa. Thêm vào đó, phục chế di tích và hiện vật trên cơ sở nghiên cứu khoa học sẽ làm phong phú thêm đối tượng cần bảo quản và phát huy. Trên cơ sở các hoạt động đó, việc dành các không gian thích hợp để trưng bày các hiện vật: Các kỷ vật, sắc phong, bằng cấp và các văn bản Hán Nôm khác liên quan đến danh nhân tham gia phong trào Tây Sơn một cách khoa học kết hợp với việc xây dựng các chương trình giáo dục là hết sức cần thiết để giới thiệu cho công chúng thêm hiểu biết về cuộc đời và sự nghiệp của danh nhân.
- Tăng cường chuyển đổi số, số hóa trong bảo tồn và phát huy giá trị di tích là xu hướng tất yếu khi mà cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã ảnh hưởng sâu rộng đến tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội. Việc ứng dụng chuyển đổi số hoạt động di tích nói chung và di tích lưu niệm danh nhân liên quan đến phong trào Tây Sơn ở Hà Tĩnh cần được ưu tiên nhằm rút ngắn không gian và thời gian của công chúng trong việc tìm hiểu nội dung và giá trị của di tích. Di tích trở nên sống động, giàu tính hấp dẫn khi được ứng dụng công nghệ cao trong bảo tồn và phát huy giá trị. Việc trước mắt là tạo một quỹ mã QR Code cho di tích trên cơ sở kiểm soát chất lượng của nội dung thể hiện nhằm cung cấp cho các nhà quản lý cho đến các doanh nghiệp du lịch, trường học, các tổ chức chính trị xã hội … trên địa bàn mong muốn tìm hiểu về di sản văn hóa liên quan đến phong trào Tây Sơn mà kinh phí thực hiện rất ít từ đó nhân rộng cho toàn hệ thống di tích toàn tỉnh.
- Tuyên truyền Luật Di sản văn hóa trong bảo vệ và phát huy các giá trị của di tích nói chung và di tích lưu niệm danh nhân về phong trào Tây Sơn ở Hà Tĩnh là giải pháp cần thiết. Luật Di sản văn hóa được bàn hành là cơ sở pháp lý quan trọng, có tính chất bản lề trong công tác bảo tồn – bảo tàng. Việc tuyên truyền luật đến với các chủ sở hữu di tích và cán bộ cơ sở phải là việc làm thường xuyên góp phần quan trọng trong việc tránh làm sai lệch giá trị di tích, bảo tồn nguyên trạng các di tích, hiện vật gốc và tăng cường giáo dục di sản hướng tới việc khai thác bền vững phục vụ phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội ở địa phương.
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là giải pháp quan trọng, là cơ sở để nâng cao chất lượng hoạt động di tích. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, việc đào tạo, tập huấn nghiệp vụ bảo tồn – bảo tàng cho cán bộ cơ sở cấp xã, cấp huyện và chủ sở hữu di tích đang còn hạn chế thì giải pháp này đưa ra sẽ khắc phục được vấn đề. Việc quan trọng trước mắt là nghiệp vụ hướng dẫn, xây dựng chương trình giáo dục và công tác bảo quản chống xuống cấp di tích.
- Tăng cường công tác quản lý Nhà nước, hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ, kết nối di sản, tổ chức hội thảo khoa học, biên soạn, xuất bản ấn phẩm, hợp tác quốc tế trong tu bổ và tôn tạo di tích liên quan đến phong trào Tây Sơn ở Hà Tĩnh cũng là những giải pháp cần tham khảo. Việc tăng cường thường quản lý Nhà nước đối với di tích được coi là giải pháp bản lề, vừa trước mắt vừa lâu dài vừa đảm bảo cho di tích hoạt động đúng pháp luật, đúng chuyên môn nghiệp vụ, đồng thời tạo hành lang pháp lý cho việc xã hội hóa công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích. Việc hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động di tích, tránh được những mặt tiêu cực hạn chế có thể xẩy ra trọng công tác bảo tồn và phát huy gia trị di tích. Việc tổ chức hội thảo khoa học, xuất bản ấn phẩm về di tích danh nhân liên quan đến phong trào Tây Sơn ở Hà Tĩnh sẽ góp phát phát hiện nhiều thông tin mới, cập nhật những kiến thức mới, phổ biến rộng rải đến các nhà khoa học, nhà quản lý và công chúng nói chung về di tích, về danh nhân.
Kết luận
Tóm lại, phong trào Tây Sơn và nhà Tây Sơn tồn tại trong một thời gian không dài trong lịch sử Việt Nam nhưng đã để lại cho hậu thế nhiều di sản trong đó có di sản văn hóa. Ở Hà Tĩnh, di tích lưu niệm danh nhân liên quan đến phong trào Tây Sơn tuy số lượng không lớn nhưng là một bộ phận quan trọng trong hệ thống di tích ở Hà Tĩnh. Các di tích này góp phần vào việc giáo dục truyền thống yêu nước của quê hương, dân tộc, lịch sử chống giặc ngoại xâm cho các thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ. Việc nâng cao chất lượng hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di tích phải là việc làm thường xuyên góp phần khai thác bền vững các giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học như là một tài nguyên du lịch sinh lợi góp phần phát triển kinh tế xã hội của tỉnh hiện tại cũng như tương lai./.
Tài liệu tham khảo
1. Đặng Duy Báu (Chủ biên - 2016), Lịch sử Hà Tĩnh, Tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
2. Nguyễn Lương Bích (1989), Quang Trung – Nguyễn Huệ, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội
3. Thái Kim Đỉnh (2004), Các nhà khoa bảng Hà Tĩnh, Hội Liên hiệp VHNT Hà Tĩnh.
4. Võ Hồng Huy (2013), Địa chí huyện Can Lộc, Nxb Nghệ An.
5. Lê Bá Hạnh (2006), Hồ sơ di tích LSVH Nhà thờ Đặng Hữu Cán, xã Việt Tiến, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Hà Tĩnh.
6. Trần Phi Công (2009), Hồ sơ di tích LSVH Nhà thờ Hồ Văn Hoa, xã Phương Mỹ, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Hà Tĩnh.
7. Nguyễn Tùng Lĩnh (2018), Hồ sơ di tích LSVH Mộ và Nhà thờ Hồ Phi Chấn, xã Thạch Văn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Hà Tĩnh.
8. Võ Văn Tuyển (1994), Hồ sơ di tích Đền thờ Nguyễn Thiếp, xã Kim Song Trường, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Hà Tĩnh.
9. Nguyễn Thị Thương Hiền (2005), Hồ sơ di tích LSVH Mộ và Đền Nguyễn Đăng Minh, xã Cẩm Vịnh, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Hà Tĩnh.
10. Nguyễn Minh Đức (2017), Hồ sơ di tích LSVH Nhà thờ Nguyễn Hữu Biện, xã Thạch Ngọc, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Hà Tĩnh.
11. Lê Bá Hạnh (2009), Hồ sơ Di tích LSVH Mộ và Nhà thờ Nguyễn Tiến Thiệu, xã Kỳ Bắc, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh, lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh.
12. Trần Hồng Dần (2011), Hồ sơ Di tích LSVH mộ và Nhà thờ Dương Văn Tào, xã Cẩm Mỹ, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, hiện lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh.