Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Hà Tĩnh là vùng đất địa linh nhân kiệt nằm ở vị trí “cổ họng giữa bắc nam”[1], đã sản sinh cho đất nước biết bao danh nhân và vĩ nhân làm rạng danh quê hương, đất nước. Nói đến Hà Tĩnh cũng như nói đến xứ Nghệ người ta thường nghĩ ngay đến một vùng địa linh nhân kiệt. Ở đây hầu như ở thời nào cũng có những con người tài năng, khoa bảng, xuất chúng… Trải qua mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, nhân dân Hà Tĩnh luôn luôn đứng vững ở nơi đầu sóng ngọn gió, đã cùng với nhân dân cả nước lập được nhiều chiến công hiển hách trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Nhiều địa danh, tên đất, tên người đã đi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như những cái tên bất diệt. Trong lịch sử chống ngoại xâm hào hùng đó, biết bao người con ưu tú của nhân dân Hà Tĩnh đã ghi danh vào lịch sử Việt Nam thời phong kiến như: Nguyễn Biểu, Lê Hữu Trác, Nguyễn Du, Phan Huy Ích, Bùi Dương Lịch, Phan Đình Phùng… trong đó tiểu biểu phải kể đến Nguyễn Thiếp. Trong bài viết này chúng tôi hi vọng đưa thêm một số ý kiến đóng góp, nhìn nhận đánh giá thêm về La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp nhân kỷ niệm 300 năm ngày sinh của ông. Qua đây có thể vinh danh sự nghiệp, vai trò lịch sử của ông với dân tộc như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Nguyễn Du…
Vua Quang Trung và La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp. Ảnh minh họa.
1. Vài nét về thân thế và sự nghiệp
La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp (1723 - 1804) là danh thần thời Tây Sơn, húy là Minh, tự Quang Thiếp. Nhưng thời chúa Trịnh Doanh, chữ Quang là quốc húy, cho nên lúc đi thi, phải bỏ chữ đệm (chữ lót) ấy, và lấy tên Nguyễn Thiếp[2]. Ông còn nhiều tên tự và hiệu như: Khải Xuyên, Hạnh Am, Cuồng ẩn, Lạp Phong cư sĩ, Bùi Phong cư sĩ, Hầu Lục Niên, Lục Niên tiên sinh, La Giang phu tử, Lam Hồng dị nhân, Nguyệt Ao tiên sinh. Nguyễn Huệ gọi ông là La Sơn phu tử, sau lại gọi là La Sơn tiên sinh. Ông sinh ngày 24-9-1723, tại làng Nguyệt Ao, tổng Lai Thạch, huyện La Sơn, nay là xã Kim Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Cha là Nguyễn Quang Nhuận, giữ một chức nhỏ ở làng xã; mẹ là con gái họ Nguyễn Huy ở Trường Lưu, thúc phụ là Nguyễn Hành, đỗ tiến sĩ khoa Quý Sửu (1733) đời Lê Thần Tông.
Ông là người thông minh ham đọc sách, nhờ mẹ chăm sóc và chú kèm cặp nên học giỏi, năm 1743 thi đỗ Hương giải[3], có chí làm quan. Nhưng lúc bấy giờ, chế độ phong kiến Lê - Trịnh đang ngày một khủng hoảng trầm trọng. Nông dân đói khổ, khởi nghĩa khắp nơi, quan lại tham nhũng, Nguyễn Thiếp bỏ về làm ruộng, đọc sách, dạy học và đi đó đây khắp núi Hồng sông Lam, tỏ ra không quan tâm đến thời cuộc của triều Lê - Trịnh khi ấy.
Năm 1756, vì nhà đông con và còn mẹ già phải phụng dưỡng nên Nguyễn Thiếp đành chịu nhận một chức quan rất nhỏ là làm Giáo thụ phủ Anh Đô, để hàng tháng được nhận lương bổng nuôi mẹ già và con nhỏ. Dạy học ở phủ cũng phù hợp với khả năng trình độ, nhưng Nguyễn Thiếp thấy quá tù túng, vì nơi đồng hoang núi trọc này ông không biết phải dùng cái sở học của mình vào đâu. Làm Giáo thụ đến kì “khảo khóa” không bị hỏng, ông được thăng làm Tri huyện Thanh Chương (1763), bổng lộc tăng chút ít, nhưng so với chức Giáo thụ lại càng nhàm chán hơn. Nhưng đã nuôi chí ở ẩn nên năm Mậu Tý (1768) ông xin từ quan về lập trại Bùi Phong cạnh thành Lục Niên trên dãy núi Thiên Nhẫn ở phía Nam Đàn cư trú để dạy học và giữ tiết tháo phiêu nhàn. Lúc này ông đã nổi tiếng là vị cao sĩ, sĩ tử xứ Nghệ tôn ông là Lục Niên tiên sinh, hoặc Lục Niên phu tử.
Theo Bùi Dương Lịch cho rằng ông bị phạt, nên mới cáo quan về quê, trong Lê Quý Dật sử ông viết: “Nguyễn Thiếp người xã Nguyệt Áo, huyện La Sơn, tỉnh Nghệ An (cháu họ tiến sĩ Nguyễn Công Hanh), lại có tên là Khải Xuyên, thi hội đỗ tam trường, được bổ làm nho học Huấn đạo ở Anh Đô, từng làm Tri huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Bị phạt, ông cáo quan xin về, dựng nhà ở núi Nam Hoa bên ngoài thành Lục Niên, ở ẩn, vui cảnh nhàn”[4]. Có ý kiến[5] nhận xét: ông (chỉ Bùi Dương Lịch) “lợi dụng việc đả kích Hồ Quý Ly, Mạc Đăng Dung là “kẻ thoái vị” và “ngụy” để gián tiếp tỏ thái độ về nhà Tây Sơn. Vốn không có hiềm khích, lại còn thầm phục Nguyễn Thiếp, chịu làm việc dưới quyền Nguyễn Thiếp, song Bùi vẫn soi móc Nguyễn Thiếp với ý phủ nhận nhà Tây Sơn”[6].
Về việc này có nhiều ý kiến[7] không đồng tình với việc La sơn phu tử Nguyễn Thiếp bị phạt. Bởi lẽ khi ấy vào “đầu năm Đinh Hợi (1767), Trịnh Doanh mất, Trịnh Sâm nối ngôi chúa. Liền sau đó, trong nước nổi lên nhiều đám loạn, hoặc chống riêng Sâm… như Lê Duy Mật; hoặc chống cả triều đình, như Hoàng Văn Chất... Trong các cuộc dấy loạn ấy, vụ Lê Duy Mật chắc có ảnh hưởng trực tiếp đến sự việc Nguyễn Thiếp từ quan… nghe tin Trịnh Sâm mới lên ngôi, Duy Mật lại kéo quân xuống đánh các huyện Hương Sơn và Thanh Chương, là nơi Nguyễn Thiếp đang cai trị. Tuy Duy Mật mang tiếng là giặc, nhưng sự khởi loạn có chính nghĩa, là giành quyền bính từ tay chúa Trịnh để phù Lê. Trong thâm tâm, Nguyễn Thiếp không thể trách Duy Mật được, mà có lẽ còn mong cho được thành công. Thế mà, chính thầy mình là Nguyễn Nghiễm, lại được sai đi dẹp loạn. Làm việc cũng không chính đáng, can gián cũng không ăn thua mà có lẽ còn bị liên lụy. Chắc rằng vì cớ ấy cho nên Nguyễn Thiếp mới cáo quan về vườn”[8].
Từ một tư tưởng trung quân như vậy, nên năm Canh Tý (1780) chúa Trịnh Sâm mời ông ra Thăng Long để hỏi ý kiến về việc cướp ngôi nhà Lê, ông lấy nhiều lẽ khuyên không nên, chúa đành im lặng, ông trở về trại Bùi Phong.
Năm 1786, Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc diệt họ Trịnh, ba lần viết thư mời ông ra “để cho quả đức có thầy mà thờ, cho đời này có người mà cậy” (thư lần thứ 2) nhưng ông đều không ra, viện lẽ này lẽ khác song điểm sâu sắc vẫn là tận giữ tấm lòng cô trung với nhà Lê[9]. Ông là người yêu nước thương dân, nhưng ý thức trung quân, tư tưởng chính thống không cho phép ông theo Tây Sơn. Năm 1788, khi ra Bắc diệt Vũ Văn Nhậm, Nguyễn Huệ mời ông hội kiến ở trấn lỵ Nghệ An (Lam Thành, Hưng Nguyên). Ông yết kiến nhưng vẫn tỏ thái độ tôn phù vua Lê: “Họ Trịnh lấn áp hơn hai trăm năm, nay đem quân phúc nghĩa dứt đi được, ai lại bảo không anh hùng. Nếu giả danh để lây tiếng thì là gian hùng mà thôi”[10].
2. Giúp triều Tây Sơn cứu nước và xây dựng cơ đồ triều Tây Sơn
Cho mãi đến khi Lê Chiêu Thống nhục nhã rước 29 vạn quân Thanh xâm lược Bắc Hà, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu là Quang Trung, kéo quân ra Thăng Long đánh đuổi quân Thanh về nước, lẽ chính tà đã rõ, Nguyễn Thiếp mới chống gậy (66 tuổi) xuống núi, hội kiến với vua Quang Trung ở Lam Thành Sơn, nhận giúp người “anh hùng áo vải cờ đào” công việc cứu nước và dựng nước.
Vua Quang Trung hỏi kế đánh giặc Thanh, ông đáp rằng: “Nay trong nước trống không, lòng người li tán. Quân Thanh ở xa lại, tình hình quân ta sức mạnh sức yếu không biết, thế công thế thủ không hay. Chúa công ra chuyến này chẳng qua mười ngày là giặc Thanh sẽ thua. Quả đúng như vậy, quân Thanh thất bại phải chạy về nước. Nhớ ơn quân sư Nguyễn Thiếp, vua Quang Trung gửi thư ca ngợi Thầy “Người xưa bảo rằng: “Một lời nói mà dấy nổi cơ đồ”. Lời tiên sinh hẳn có thế thật”. Thế là công việc đánh thắng quân Thanh có công lớn của La Sơn phu tử[11].
Trong sự nghiệp vẻ vang của triều đại Tây Sơn có một phần đóng góp to lớn của người dân xứ Nghệ (bao gồm cả Hà Tĩnh ngày nay), đặc biệt trong cuộc tổng phản công đập tan 29 vạn quân xâm lược Mãn Thanh và trong quá trình xây dựng vương triều về sau. Ngoài Nguyễn Thiếp, ẩn sĩ tài danh đã ra giúp Nguyễn Huệ ngay từ buổi đầu còn có nhiều bậc danh sĩ khác cộng tác đắc lực với vương triều Tây Sơn[12].
Cuối cùng, sự nghiệp “giúp dân cứu nước” của Tây Sơn, thái độ chiêu hiền ân cần của Quang Trung đã đưa Nguyễn Thiếp đến với Tây Sơn. Năm 1789, ông nhận làm Đề điệu chấm thi Hương ở Nghệ An. Năm 1791, ông vào Phú Xuân yết kiến Quang Trung, tâu bày về “quân đức” (đức của vua), “dân tâm” (lòng dân) và “học pháp” (phép học)[13].
Điều cả hai người đều hiểu mà không nói ra là Nguyễn Huệ rất cần có Nguyễn Thiếp để lôi kéo sĩ phu Bắc Hà. Nếu Nguyễn Thiếp ra sớm thì uy tín sẽ bị giảm sút, vai trò của ông sẽ kém tác dụng. Nay trước nạn nước, ông ra giúp Huệ thì không ai có thể chê trách được nữa. Đây là thời cơ cho ông thi thố sở học của mình... Tháng bảy năm Tân Hợi (1791), Nguyễn Thiếp vào Phú Xuân dâng sớ, xin triều đình làm ba việc mà ông cho là quan yếu nhất: Một là, vua phải học để sửa quân đức; hai là ban bố ân trạch để yên dân, giữ vững nhân tâm; ba là sửa đổi học pháp để đào tạo nhân tài. Vua Quang Trung chấp thuận và cho thi hành ngay[14]. Như vậy, có thể thấy với tài năng, tầm nhìn chiến lược, cùng với chính sách trọng kẻ sĩ của Quang Trung, đã thu phục được kẻ sĩ Bắc Hà. Các cựu thần nhà Lê từ chỗ bất hợp tác, dè chừng, đã ra hợp tác và trung thành với triều Quang Trung, tiêu biểu như Nguyễn Thiếp, Ngô Thì Nhậm. Chính sự lựa chọn của Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Thiếp đã tác động đến phần lớn nho sĩ Bắc Hà, từ đó Phan Huy Ích, Trần Bá Lãm, Ninh Tốn, Vũ Huy Tấn, Đoàn Nguyễn Thuấn... lần lượt ra phục vụ nhà Tây Sơn, trở thành những trụ cột của triều Quang Trung.
Sau đó, vua Quang Trung cho thành lập Viện Sùng Chính, Viện này được đặt ở Vĩnh Dinh, trên núi Nam Hoa (Nghệ An), nơi ở ẩn của Nguyễn Thiếp - người mà Quang Trung chọn làm Viện trưởng. Việc lập ra Viện Sùng chính lúc này “cốt ý để cải cách sự học”. Cùng quê với Nguyễn Thiếp có Bùi Dương Lịch là thế hệ hậu bối, chịu ơn triều Lê, đỗ Tiến sĩ dưới thời Lê cũng chịu ra giúp sức, khi ông được vua Quang Trung mời ra giúp việc biên soạn và dịch thuật ở Viện Sùng chính dưới quyền của Viện trưởng là La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp, ông nhận lời. Và chỉ sau dó ít lâu đã thấy có chiếu chỉ từ Phú Xuân khen ngợi và ban thưởng. Trong một tờ chiếu của vua Quang Trung gửi cho La Sơn phu tử có đoạn: “Chiếu cho Sùng Chính viện Viện trưởng, La Sơn tiên sinh Nguyễn Khải Xuyên được biết:
Nguyên kỳ trước diễn dịch các sách Tiểu học đã đệ tiến nộp. Kỳ này, diễn dịch Tứ thư đã xong. Cộng được 32 tập; trấn quan đã chuyển đệ về kinh tiến nộp. Trẫm đã từng xem. Tiên sinh giảng bàn, phu diễn, kể đã chăm chỉ. Những viên giúp việc là Nguyễn Công, Nguyễn Thiện, Phan Tố Định, Bùi Dương Lịch đều có công. Vậy đặc ban thưởng cổ tiền 100 quan, do trấn quan chiểu theo mà cấp, lĩnh để chung hưởng ân tứ… Nay chiếu giao Tiên sinh việc giải thích ba kinh Thi, Thư, Dịch. Thể theo kinh văn và tập chú mà lấy từng chữ, từng câu, diễn ra quốc âm: cứu xét tinh tường, để đọc cho hay. Tiên sinh nên thúc giục những viên hàn lâm Nguyễn Công, Nguyễn Thiện, Phan Tố Định, Bùi Dương Lịch theo lệnh bản viện mà làm việc. Và nói với quan bản trấn giao cho hai ba mươi tên văn thuộc từ lại, giúp việc biên lục cho Viện, để cho tiện công việc...
Khâm tai! Đặc chiếu.
Quang Trung năm thứ 5, ngày mồng 1 tháng sáu (1792)”[15].
Ngoài ra, tư liệu lịch sử còn ghi chép về việc vua Quang Trung cấp cho Nguyễn Thiếp 1 xã để ăn lộc, cấp cho mẹ công chúa Ngọc Hân 30 mẫu ruộng lộc[16]…
Một việc hệ trọng khác mà La Sơn phu tử được vua Quang Trung ủy thác tìm đất dựng kinh đô của nhà Tây Sơn ở Nghệ An, qua nhiều lần chọn cuối cùng bị dở dang không thành. Trong những lần ra Bắc Hà vào các năm 1786, 1788... vua Quang Trung đã diện kiến và viết thư gửi Nguyễn Thiếp, nhờ xem thế đất mà Quang Trung đã chọn vị trí để đặt kinh đô sau này, sở dĩ vua Quang Trung muốn chọn Nghệ An để xây dựng Phượng Hoàng Trung đô, vì nơi đây vốn là quê cha, đất tổ của anh em Tây Sơn. Hơn nữa, vùng đất Nghệ An thường sản sinh ra những con người hào kiệt, có tinh thần bất khuất và quả cảm.
Từ năm 1786, Quang Trung đã dự định chọn Phù Thạch để lập đô với vị thế ở dưới chân núi Nghĩa Liệt, là trung tâm của chốn Hồng Lam, lại thêm kề cạnh núi sông, đi lại tiện lợi mà phòng thủ cũng dễ dàng. Dự kiến của Quang Trung cho việc dựng đô tại Phù Thạch đã không nhận được sự ủng hộ của Nguyễn Thiếp. Ông đã viết thư trả lời, khuyên Quang Trung đừng lập đô ở Nghệ An nữa, trong đó có đất Phù Thạch với lý do: việc dựng đô sẽ làm phiền khổ nhân dân Nghệ An, hơn nữa ngoài Bắc Hà đương còn nhà Lê (đây là lúc nhà Lê chưa sụp đổ). Tuy nhiên, Quang Trung quyết tâm đưa kinh đô về Nghệ An vì lẽ “nếu không lấy đất Nghệ An để thường thường chống thượng du, thì lấy đâu để khống chế trong ngoài”. Bàn đi tính lại, cuối cùng, khi nhà Lê đã sụp đổ Nguyễn Thiếp ủng hộ ý định của Quang Trung và muốn thay đổi vị trí Phù Thạch bằng vị thế xã Yên Trường, tức là Thành phố Vinh bây giờ để xây dựng Phượng Hoàng Trung đô. Nhưng đây cũng chưa phải là một đắc địa, do đó phải đến lần thứ ba, vị trí xây dựng Phượng Hoàng Trung đô mới được xác định chính thức. Hoàng Xuân Hãn viết: “Phượng Hoàng cũng là một tên của núi Dũng Quyết hay núi Quyết. Sách Đại Nam nhât thống chí in đời Thành Thái chỉ chép rằng Phượng Hoàng sơn là một ngọn núi ở Hưng Nguyên và không nói rõ ở làng nào...”[17].
Nói tóm lại, Quang Trung định đóng đô ở Nghệ An nhưng chỗ đóng đô đổi đến ba lần, lần đầu ở núi Lam Thành, lần thứ hai ở Yên Trường, cách núi Lam Thành chừng mười cây số ở phía Bắc, lần thứ ba ở Dũng Quyết, cách Yên Trường chỉ chừng hai cây số ở phía đông nam và cách núi Lam thành chừng tám cây số[18].
Công việc đang tiến hành thuận lợi thì ngày 29/7 Nhâm Tý (16/9/1792) vua Quang Trung đột ngột qua đời, mấy tháng sau, ông trả hết bổng lộc sống cảnh nghèo túng tại trại Bùi Phong, đọc sách và dạy một số học trò.
Quang Toản lên ngôi vua, cậu là Bùi Đức Tuyên làm phụ chính chuyên quyền, đại thần nghi kỵ chém giết lẫn nhau, ít năm sau Nguyễn Ánh đã đánh chiếm Gia Định, đến năm 1800, nhà Tây Sơn đã có triệu chứng sụp đổ. Thấy tình hình ấy, đầu 1801, Quang Toản cho vời ông vào kinh đô Phú Xuân để mong ông giúp đỡ và khuyên bảo. Sử chép: “… Quang Toản thế ngày càng cùng quẫn, sai người đem nhiều lễ vật đến mời Nguyễn Thiếp. Khi Nguyễn Thiếp đến, hỏi về việc nước, Thiếp nói: không thể làm được nữa. Toản lại hỏi, Thiếp nói rằng: ai chịu theo, Toản nói: trao cho gươm và ấn, ai dám không theo, Thiếp nói rằng: ngay như quân vương không theo thì sao, Toản im lặng. Thiếp lui bảo người bạn thân rằng: cửa biển sông ngư nước nông, họ Nguyễn trở về làng, núi sông của chủ cũ, không bao lâu lại về chủ cũ cả. Nhân bảo Toản lui giữ Vĩnh Đô (thuộc Nghệ An) may ra hoặc có thể hoãn được. Toản cũng do dự không quyết”[19].
Sách Đại Nam nhất thống chí do Quốc Sử quán triều Nguyễn biên soạn có ghi chép chi tiết hơn về sự kiện này trong phần Tỉnh Nghệ An (Quyển V) viết: “Nguyễn Thiếp: người xã Nguyệt Áo, huyện La Sơn, đỗ hương công đời Lê, làm Tri huyện Thanh Chương, sau bỏ quan về ẩn ở núi Lạp Phong bên cạnh thành Lục Niên. Nguyễn Huệ bắt ép ra, nhưng không chịu làm quan, rồi lại về ở núi Trát. Nguyễn Quang Toản sai trấn quan đưa lễ ép mời, ông biết không thể từ chối, bèn trả lại lễ phẩm và theo sứ cùng đi. Đến nơi, gặp lúc lễ tang Nguyễn Huệ, ngụy quan thấy ông không thay áo vào viếng tang, có ý muôn giết, ngụy Trát xua tay bảo không được, bọn ngụy tướng mới thôi. Trát hỏi về việc nước, Thiếp nói: “Công việc không thể làm được”, rồi từ tạ xin về, nhưng bọn giặc không cho, ông bèn ở lại Phú Xuân. Khi Thái Tổ Cao Hoàng đế (Gia Long - Nguyễn Ánh) bản triều lấy lại được Phú Xuân, Nguyễn Thiếp vào yết kiến và xin về, nhà vua dụ báo rằng: “Nhà ngươi là bậc tuổi cao, đức thịnh, sĩ tử vẫn vui lòng chiêm ngưỡng, sau khi về núi, nên chăm lo đào tạo nhân tài, để có người đem hết tài năng giúp đỡ thịnh trị, khỏi phụ tấm lòng trọng lão kính hiền của trẫm”. Rồi sai quan và lính đưa ông về. Được ít lâu thì chết”[20].
Như sách Đại Nam nhất thống chí chép năm 1801 (78 tuổi), khi sức đã yếu mà ông còn bị người kế cận triều Tây Sơn, kém tài so với cha là Quang Toản vời vào kinh đô, không cho lui về ngay quê quán, đến khi vua Gia Long lấy được nước lên ngôi, cũng có ý muốn vời ông ra giúp nước, nhưng ông lại tiếp tục từ chối, nhưng vua Gia Long cũng hết mực mến mộ người tài năng như ông, dụ rằng: “Khanh là người tuổi tác đạo đức, rất được người ta trông cậy. Sau khi trở về núi nên khéo đào tạo lấy nhiều học trò để ra sức phò giúp thịnh triều, khỏi phụ tấm lòng rất mực mến lão kính hiền của ta”. Bèn sai quan quân đưa về”[21].
Nhiều sĩ phu Bắc Hà khi chưa hiểu về Nguyễn Huệ và nhà Tây Sơn vẫn một mực “ngu trung” với nhà Lê và chống đối Tây Sơn. Nhưng với chính sách trọng kẻ sĩ của vua Quang Trung đã thu phục được kẻ sĩ Bắc Hà. Các cựu thần nhà Lê từ chỗ bất hợp tác, dè chừng, đã ra hợp tác và trung thành với triều Tây Sơn, tiêu biểu như Nguyễn Thiếp, Ngô Thì Nhậm. Chính sự lựa chọn của Nguyễn Thiếp, Ngô Thì Nhậm đã tác động đến phần lớn nho sĩ Bắc Hà khi ấy, từ đó Phan Huy Ích, Trần Bá Lãm, Ninh Tốn, Vũ Huy Tấn, Đoàn Nguyễn Thuấn... lần lượt ra phục vụ nhà Tây Sơn, trở thành những trụ cột của triều vua Quang Trung. Như nhận định của GS. Đào Duy Anh viết: Đối với La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp “là một nhà học giả có danh vọng ở Nghệ An, Nguyễn Huệ tôn làm bậc thầy, nhiều lần gửi quà tặng và ân cần viết thư thỉnh giáo, cố mời Thiếp ra giúp. Nguyễn Thiếp cố từ, nhưng Nguyễn Huệ vẫn kính trọng, cuối cùng Thiếp phải nhận ra giúp. Vì cái thái độ “chiêu hiền đãi sĩ” như thế là Nguyễn Huệ đã nắm được một phần sĩ phu cựu thần của nhà Lê. Sau khi đại thắng quân Thanh, vương có đủ người để bố trí việc cai trị”[22].
Có thể thấy rằng, điểm nổi bật trong vương triều Tây Sơn tính từ khi Nguyễn Huệ gây dựng cơ đồ, đến khi cầm quyền ngắn ngủi trong thời gian (chưa đầy 4 năm) từ năm 1789-1792, là công cuộc hợp tác giữa Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp nói lên tất cả những đặc sắc của triều đại Tây Sơn trong thời gian xây dựng, phát triển tột cùng của họ. Vùng đất Quy Nhơn mới được Việt hóa chỉ mang lại sức mạnh cường bạo, còn Phú Xuân, Thăng Long thì đầy dấu vết các cựu triều, lại tàn tạ với đám nông dân mệt mỏi trong loạn lạc hàng mấy trăm năm, với đám sĩ phu điều khiển quốc gia ngắc ngoải trong cái học từ chương thiếu sinh khí. Nghệ An, ngoài ý nghĩa là quê hương của chúa Tây Sơn, còn là ở giữa vị trí của những ảnh hưởng đối kháng, muốn giữ vai trò trung hòa mà không muốn bị lệ thuộc”[23], vì lẽ đó, mà nguyện vọng không yên tới lúc mất của Nguyễn Huệ là sao chọn được nơi đóng đô trên đất Nghệ An, sự nghiệp dang dở của Nguyễn Thiếp và ông vua tài ba Quang Trung đang ở đỉnh cao của chế độ phong kiến đương thời, cả trước và sau này đã chấm hết khi Nguyễn Huệ đột ngột băng hà.
3. Một vài nhận xét
Về việc La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp cộng tác với nhà Tây Sơn, xưa nay được nhiều người bàn và có ý kiến khác nhau. Việc Nguyễn Thiếp ra làm quan cho triều Tây Sơn, có những người không tán thành, chê ông. Đương nhiên là họ đứng trên quan điểm bảo thủ lạc hậu của nhà Nho để phê phán Nguyễn Thiếp. Tiêu biểu cho số người này là Bùi Dương Lịch. Nhưng khi ấy cũng có không ít người ca ngợi Nguyễn Thiếp, như Trần Bá Lãm, tiến sĩ làng Vân Canh (Hoài Đức - Hà Nội) trong bài văn tế Nguyễn Thiếp, ông đã viết: “... Ôi người đời đều chê Tiên sinh, mấy ai đã hiểu Tiên sinh. Chí Tiên sinh chưa kịp thi hành, Tây Sơn đã mất. Tiên sinh cũng cùng mất theo, thực là Tiên sinh không thể không có điều giận, mà người ta cũng không thể không tiếc cho tiên sinh. Nếu không thế thì, với thực học ấy, với anh phong ấy, gặp thời đắc dụng vẫn chỉ có thế mà thôi sao? Ấy thật là đáng giận vậy”[24].
Trong bối cảnh đất nước như vậy mà Nguyễn Thiếp ra cộng tác với nhà Tây Sơn, phải nói đó là một thái độ tích cực dù rằng quá trình theo Tây Sơn của Nguyễn Thiếp không dễ dàng, còn có nhiều phân vân, dè dặt và chậm trễ. Trước hết, Nguyễn Thiếp không phải hạng “đồ nho tầm thường” xu thời nịnh thế, ai mạnh thì theo. Ông là người có nhân cách, chính kiến. Dưới thời Lê - Trịnh, chúa Trịnh nắm quyền bính, lấn át hết vua Lê. Thấy cảnh nhà chúa chuyên quyền, mà vua Lê hèn kém Nguyễn Thiếp thôi quan đi ở ẩn, nhưng tình cảm cụ vẫn tưởng nhớ nhà Lê. Khi Tây Sơn ra Bắc, lần lượt diệt chúa Trịnh, xoá bỏ triều Lê, đại phá quân Thanh, giữ vững chủ quyền đất nước, xây dựng, củng cố chính thể mới. Tất cả diễn biến ấy Nguyễn Thiếp đều được chứng kiến. Chính vì vậy tư tưởng cụ đã bị bước tiến của thời cuộc dần dần lay chuyển[25].
Ngoài ra, còn một nguyên nhân nữa khiến Nguyễn Thiếp ra làm quan với Tây Sơn là do cảm phục ân tình của Quang Trung đối với ông. Đúng là nhờ có lòng chiêu hiền đãi sĩ chân thành, tha thiết mà Quang Trung đã cảm hoá được Nguyễn Thiếp. Quang Trung đã tỏ ra có một tầm mắt nhìn xa trông rộng của một nhà chính trị lỗi lạc. Quả là Nguyễn Thiếp có uy tín trong hàng ngũ “kẻ sĩ”, tranh thủ được Nguyễn Thiếp sẽ tranh thủ được nhiều người khác nữa. Tuy nhiên, nếu ta chỉ thấy khía cạnh ấy và xem việc Quang Trung tranh thủ Nguyễn Thiếp chỉ là một thủ đoạn chính trị, không thấy “thực tình đãi hiền” rất “thành thật” của Quang Trung thì không đúng. Như thể là hạ thấp vua Quang Trung.
La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp có nhiều cống hiến cho triều Tây Sơn, Quang Trung vất vả nhiều lần (không khác nào Lưu Bị ba lần tới lều cỏ, nhà tranh cầu hiền Gia Cát Lượng - Khổng Minh), mới mời được La Sơn phu tử ra làm quan, quân sư, giúp nước, nhưng khi Quang Trung băng hà ông lại quay về với quê nhà, thái độ của Nguyễn Thiếp cũng là thái độ chung của nhiều kẻ sĩ Bắc Hà thời kì này. Nhiều người hăm hở ra giúp Tây Sơn thực hiện nghiệp nhất thống, nhưng khi Tây Sơn chia rẽ thì xu hướng li tâm khỏi vương triều Tây Sơn ngày càng rõ, nhất là sau khi vua Quang Trung băng hà, nội bộ nhà Tây Sơn bất hoà, lục đục, quần thần chia rẽ, sát hại lẫn nhau làm cho nhà Tây Sơn suy yếu. “Khi dấu hiệu suy yếu của nhà Tây Sơn bộc lộ ngày một rõ, đội ngũ này càng phân hóa, dao động mạnh. Một số trung thần, có tài có đức cũng đành ngán ngẩm nhìn cơ đồ đổ vỡ trong tay bọn chuyên quyền, lộng hành, kém tài đức. Ngô Thì Nhậm quay về với Phật, Phan Huy Ích vui với rượu và thơ, Bùi Dương Lịch dạy học, Nguyễn Thiếp lại trở về với cái chí xa lánh thời cuộc của mình”[26]. Tây Sơn từng tranh thủ được sự ủng hộ của kẻ sĩ những người giỏi nhất thời bầy giờ, được sự ủng hộ của nhân dân Bắc Hà... nhưng Tây Sơn bất lực trong việc duy trì sức mạnh đó, điều đó chắc chắn La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp nhìn thấy được nên chán cảnh ấy ông lại tìm cách ẩn dật tuổi già ở quê nhà xứ Nghệ (Nghệ An - Hà Tĩnh).
Có thể thấy nhận định của sử gia Trần Trọng Kim trong sách Việt Nam sử lược, vừa thể hiện được “Đức độ vua Quang Trung”, vừa thể hiện được đánh giá của ông với Nguyễn Thiếp và mối quan hệ giữa hai người tài ba nhất ấy: “Vua Quang Trung nhà Nguyễn Tây Sơn là ông vua anh dũng, lấy võ lược mà dựng nghiệp, nhưng ngài có độ lượng, rất am hiểu việc trị nước, biết trọng những người hiền tài văn học. Khi ngài ra lấy Bắc Hà, những người như Ngô Thì Nhiệm, Phan Huy Ích đều được trọng dụng và nhất là đối với một người xử sĩ như Nguyễn Thiếp thì thật là khác thường… Vua Quang Trung từ khi đem quân ra đánh Bắc Hà, biết tiếng Nguyễn Thiếp, đã mấy lần cho người đem lễ vật mời ông ra giúp, ông không nhận lễ và cũng từ chối không ra. Đến khi ngài đã đăng cực, lại mấy lần cho người đến mời ông, ông có đến bái yết và khuyên vua nên lấy nhân nghĩa mà trị dân trị nước, rồi lại xin về. Vua Quang Trung tuy không dùng được ông, nhưng bao giờ cũng tôn kính ông như bậc thầy, và việc chính trị trong nước thường theo ý nghĩa của ông đã trình bày”[27].
La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp là một “kẻ sĩ” trí thức có tiếng tăm thời Lê - Trịnh, Tây Sơn. Tên tuổi ông không những được người đương thời ngưỡng vọng mà hậu thế cũng kính trọng. Sống giữa thời buổi Lê mạt, xã hội loạn lạc rối ren, nhiều sĩ phu Bắc Hà không còn đức độ như xưa, nhưng ông vẫn giữ được tiết tháo trong sạch. Trong lúc bao ông nghè, ông thám lao thân vào cầu phú quý, công danh, thậm chí mưu danh kiếm lợi bằng đàn áp, bóc lột quần chúng nông dân, thì Nguyễn Thiếp chẳng màng tước lộc. Trái lại, “phu tử” hết sức băn khoăn, lo lắng thấy vận nước suy đồi và tỏ lòng thương dân, muốn tìm cách làm giảm bớt nỗi khổ sưu thuế, binh dịch cho dân. Hơn nữa, Nguyễn Thiếp đã biết lựa chọn con đường đi đúng đắn nhất đối với một người trí thức khi đứng trước thời cuộc. Đó là con đường gắn bó cùng dân tộc, nhân dân; con đường hợp tác với một lực lượng chính trị tiến bộ nhất (là nhà Tây Sơn khi ấy) để được cống hiến giúp đời.
Chú thích:
[1] Quốc Sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, tập 2, bản dịch Viện Sử học, Nxb Thuận Hóa, 2006, tr.99.
[2] Hoàng Xuân Hãn, La sơn phu tử, in trong Hoàng Xuân Hãn: Tác phẩm được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003, tr.443.
[3] Hoàng Xuân Hãn, La sơn phu tử, Sđd, tr.462.
[4] Bùi Dương Lịch, Lê Quý Dật sử, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1987, tr.43.
[5] Ý kiến của nhà nghiên cứu Thái Kim Đỉnh
[6] Bùi Dương Lịch, Nghệ An ký, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2018, tr.14-15.
[7] GS Hoàng Xuân Hãn, GS Văn Tân…
[8] Hoàng Xuân Hãn, La sơn phu tử, Sđd, tr.462. Văn Tân, Cách mạng Tây Sơn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004, tr.140-141.
[9] Ninh Viết Giao, Từ điển nhân vật xứ Nghệ, Nxb Tổng hợp TPHCM, 2012, tr.457.
[10] Tỉnh ủy Hà Tĩnh, Lịch sử Hà Tĩnh, tập I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.216.
[11] La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998, tr.311.
[12] Tạ Chí Đại Trường, Việt Nam thời Tây Sơn: Lịch sử nội chiến 1771 - 1802, Nxb Công an nhân dân, 2007, tr.198.
[13] Tỉnh ủy Hà Tĩnh, Lịch sử Hà Tĩnh, tập I, Sđd, tr.217.
[14] Huyện ủy, UBND huyện Đức Thọ, Địa chí huyện Đức Thọ, Nxb Lao Động, Hà Nội, 2004, tr.184.
[15] Hoàng Xuân Hãn, La sơn phu tử, Sđd, tr.599.
[16] Xem thêm Trương Hữu Quýnh, Một số nét lớn về tình hình ruộng đất và nông nghiệp thời Tây Sơn, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số đặc biệt về Phong trào nông dân Tây Sơn, số 6 (183), 1978, tr.90.
[17] Hoàng Xuân Hãn, La sơn phu tử, Sđd, tr.570.
[18] Dẫn theo: Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Nghệ An, Lịch sử Nghệ An, tập I, Nxb Chính trị quốc gia, 2012, tr.449.
[19] Quốc Sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, sơ tập, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1993, tr.535.
[20] Quốc Sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, tập 2, Nxb Thuận Hóa, Huế, 2006.
[21] Quốc Sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002, tr.445.
[22] Đào Duy Anh, Tác phẩm được Giải thưởng Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003, tr.526.
[23] Tạ Chí Đại Trường, Việt Nam thời Tây Sơn: Lịch sử nội chiến 1771 - 1802, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2007, tr.243, 244.
[24] Hoàng Xuân Hãn, La sơn phu tử, Sđd, tr.637.
[25] Tạ Ngọc Liễn, Nguyễn Thiếp, Tạp chí NCLS, số 164, 1975, tr.29.
[26] Nguyễn Danh Phiệt, Nhà Tây Sơn với sự nghiệp dựng nước, số đặc biệt kỷ niệm 200 năm Chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa (1789-1989), Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 1 (244) 1989, tr.32-33.
[27] Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2002, tr.407.