Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
1. Tóm tắt
Triều Tây Sơn hình thành và tồn tại trong thời gian ngắn nhưng có những đóng góp rất có ý nghĩa cho lịch sử dân tộc. Sau khi thành lập chính quyền mới, vua Quang Trung đã đề ra các chính sách cải cách về chính trị, ngoại giao, kinh tế, giáo dục để khôi phục, xây dựng đất nước. Một trong những chính sách để lại nhiều dấu ấn quan trọng dưới thời Tây Sơn là cải cách giáo dục góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài, chấn hưng văn hóa quốc gia.
2. Bối cảnh lịch sử và chính sách Cầu hiền của vua Quang Trung
Phong trào Tây Sơn xuất phát từ một cuộc khởi nghĩa nông dân và phát triển thành phong trào giải phóng dân tộc, sau đó phong trào đã thực hiện tất cả các sứ mệnh lịch sử giao phó, đó là xóa bỏ ranh giới chia cắt đất nước gần 200 năm (Đàng Ngoài – Đàng Trong), đánh đuổi quân xâm lược Xiêm và đại thắng 29 vạn quân Thanh giành độc lập dân tộc. Sau khi lên ngôi, vua Quang Trung đã tập trung xây dựng bộ máy chính quyền và đề ra nhiều chính sách mới về: chính trị, ngoại giao, kinh tế (ban hành chiếu Khuyến nông, xóa bỏ bế quan tỏa cảng…) văn hóa, giáo dục để phục hồi, xây dựng đất nước. Về chính sách cải cách giáo dục, vua Quang Trung đã ban hành Chiếu lập học và chính sách Cầu hiền để thu phục, tập hợp các nhân sĩ, trí thức đóng góp công sức cho triều đại mới. Một nhân sĩ đương thời mà vua Quang Trung đã rất tha thiết mời gọi để thực hiện hoài bảo của mình là La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp.
Nguyễn Thiếp hiệu là Lạp Phong cư sĩ, sinh năm 1723 tại làng Mật Thôn, xã Nguyệt Ao, huyện La Sơn, phủ Đức Quang (nay là xã Kim Song Trường, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh). Sinh thời ông thi đỗ Hương giải, một thời gian sau mới ra làm quan, trãi qua các chức vụ Huấn đạo (Anh Đô), Tri huyện Thanh Chương, trấn Nghệ An nhưng chán ghét quan trường đã từ quan về sống ẩn dật gần 20 năm trên núi Thiên Nhẫn. Nguyễn Thiếp không phải là kẻ cầu nhàn thoát tục, mà để giữ tiết tháo của một kẻ sĩ có lòng tự trọng, mặc dù không đỗ đại khoa, phần lớn cuộc đời ởẩn và dạy học nhưng tiếng tăm Nguyễn Thiếp vẫn vang danh cả nước. Do vậy, vua Quang Trung đánh giá rất cao tài đức của Nguyễn Thiếp:“Ông tuổi đức đã cao, tất cảsĩ phu đều trông ngóng như núi Thái Sơn, sao Bắc Đẩu. Nay trong nước đã yên. Trẫm toan hưng khởi chính học. Ông đã lấy học thuật biện rõ bên tà, bên chính trong phép học, Trẫm rất vui lòng” [1]. Mối lương duyên được kết nối giữa vua Quang Trung và Nguyễn Thiếp diễn ra sau lần gặp gỡ thứ 4, vào năm 1791, khi Nguyễn Thiếp vào Phú Xuân hội kiến với vua Quang Trung, lúc ông đã 69 tuổi. Điều này xảy ra sau khi Nguyễn Thiếp thấy được tài thao lược của vua Quang Trung trong công cuộc chống quân xâm lược Mãn Thanh và đề ra các chính sách cải cách tiến bộ để khôi phục, xây dựng đất nước.
Vua Quang Trung không chỉ là một vị vua, vị tướng uy danh lừng lẫy bách chiến bách thắng, mà còn là một nhà văn hóa có tầm nhìn xa trông rộng, có tinh thần cầu thị để kêu gọi người tài ra giúp nước. Sự gặp gỡ giữa vua Quang Trung và Nguyễn Thiếp là một sự kiện hiếm có trong lịch sử, Nguyễn Thiếp là một ẩn sĩ nhưng không vô trách nhiệm với thời cuộc nên đã chấp nhận cộng tác với triều Tây Sơn để thực hiện lý tưởng của mình bằng con đường nhập thế hành đạo. Sự tiếp cận của Nguyễn Thiếp với vua Quang Trung thể hiện quá trình chuyển biến thay đổi nhận thức, bởi ông vốn là một sĩ phu Nho học nhưng không bó buộc khuôn mẫu, cố chấp, ông nhận thức được xu thế thời đại để có thái độứng xử sáng suốt và có trách nhiệm trước lịch sử. Tại sao có sự thay đổi thú vị đó trong những con người như: Nguyễn Thiếp, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích vốn là các cựu thần nhà Lê?. Bởi khi những danh Nho này đã hiểu rõ vua Quang Trung muốn thay đổi đất nước, thực sự trăn trở trước số phận dân tộc, họ đã có niềm tin vào tiềm năng, tương lai của quốc gia nên chấp nhận cộng tác với triều Tây Sơn.
Do đó khi, Nguyễn Thiết nhận lời vào Phú Xuân bàn việc nước với vua Quang Trung năm 1791, ông đã cảm phục tinh thần ham học hỏi của vị Hoàng đế xuất thân áo vải nên chân thành khuyến khích :“Thượng đức tính chất cao minh, nghị luận lỗi lạc, liệu việc, liệu người hơn người ta. Nếu lấy sự học vấn mà tăng thêm tài, thật là một đấng ở trước đời Thang võ”[2]. Để rồi, sau đó Nguyễn Thiếp đã toàn tâm, toàn ý đứng về nhà Tây Sơn giúp tân triều thiết lập kỷ cương, mở mang nền học vấn, xây dựng nền văn hóa, đem lại quyền lợi cho dân tộc.
3. Chính sách cải cách giáo dục thời Tây Sơn và một số đóng góp của La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp
Triều Tây Sơn thực hiện chính sách giáo dục thông suốt từ trung ương đến cơ sở, để cụ thể hóa vua Quang Trung đã ban Chiếu lập học, quy định việc tổ chức học tập đến tận cấp xã, giao cho xã chọn những người có học và đức hạnh tâu lên triều đình để bổ dụng làm thầy dạy ở các trường xã. Vua Quang Trung cũng chú ý đến các trường ở phủ, giao cho dân địa phương trông nom, đợi đến khi chọn được các Huấn đạo sẽ đặt làm trường giảng tập của phủ. Trong Chiếu lập học, vua Quang Trung nhấn mạnh: “Dựng nước lấy học làm đầu, cai trị lấy nhân tài làm gấp. Trước đây bốn phương nhiều việc phải phòng bị, việc học không được sửa sang, khoa cử bỏ dần, nhân tài ngày càng thiếu thốn. Trẫm khi vừa mới bình định đã có nhã ý hậu đãi nhà nho, lưu tâm đến kẻ sĩ, muốn có người thực tài để dùng cho quốc gia" [3]. Quan điểm của vua Quang Trung trong Chiếu lập học thể hiện rất rõ việc học và đào tạo nhân tài được ưu tiên hàng đầu, mục đích của việc học thành tài để phụng sự quốc gia dân tộc, chứ không phải học để làm quan, vinh thân phì gia. Sau đó, vào ngày 20 tháng 8 năm 1791, vua Quang Trung đã cho lập Viện Sùng Chính, đặt tại núi Nam Hoa, xã Nam Hoa, huyện Nam Đàn nơi Nguyễn Thiếp ởẩn để thực hiện các mục tiêu của mình đề ra. Vua Quang Trung đã giao cho Nguyễn Thiếp làm Viện trưởng và đặt ra các nhiệm vụ cần thực hiện: “Trẫm định đặt Sùng Chính thư viện ở Vĩnh Kinh, tại núi Nam Hoa, ban cho ông chức Sùng Chính viện-Viện trưởng. Cho ông hiệu La Sơn Tiên sinh và giao cho ông chuyên coi việc dạy. Nhất định theo phép học Chu tử, khiến cho nhân tài có thể thành tựu, phong tục trở lại tốt đẹp. Từ rày phàm trong các viên Tư nghiệp, Đốc học mỗi năm nếu có ai học hay, hành tốt, thì sẽ kê quê quán, tên họ đạt đến Thư viện, giao cho ông khảo xét đức nghiệp và hạnh nghệ tâu lên Triều để chọn mà dùng. Ông nên giảng rõ đạo học, rèn đức nhân tâm để cho xứng danh với ý Trẫm khen chuộng kẻ tuổi cao đức lớn”[4].
Có thể thấy lần đầu tiên trong lịch sử, chỉ có vua Quang Trung mới đặt một cơ quan về giáo dục cấp trung ương ở xa kinh thành như thế, một nơi rất xa sự giám sát của triều đình để thực hiện những công việc trọng đại quốc gia.
Vậy, Viện Sùng chính có chức năng gì? Thành phần làm việc tại Viện Sùng chính. Theo Tờ Chiếu vua Quang Trung giao cho Nguyễn Thiếp thì Viện Sùng chính có các chức năng sau:
Thứ nhất, chuyên coi việc dạy. Nhất định theo phép học Chu tử, khiến cho nhân tài có thể thành tựu, phong tục trở nên tốt đẹp.
Thứ hai, khảo sát đức nghiệp và hạnh nghệ hàng năm các viên Tư nghiệp, Đốc học xem ai học hay, hạnh tốt, rồi tâu lên Triều để chọn dùng.
Về thành phần làm việc ở Viện Sùng chính có những người sau đây: Nguyễn Công, Nguyễn Thiện (hai ông là con Tiến sĩ Nguyễn Khản, cháu Xuân quận công Nguyễn Nghiễm), Phan Tố Định và Bùi Dương Lịch là những nhà khoa bảng và rất giỏi chữ Nôm, ngoài ra có khoảng hai ba mươi tôn văn thuộc, từ lại giúp việc biên soạn cho Viện. Như vậy, số lượng người làm việc ở Viện Sùng Chính cũng không nhiều, chỉ có 5 người kể cả Nguyễn Thiếp. Nguyễn Thiếp giữ chức Viện trưởng lại được vua Quang Trung cho quyền lựa chọn các Đốc học, Tư nghiệp, nên ông nghiễm nhiên trở thành Thượng thư “Bộ học” dưới triều Tây Sơn.
Công việc của Viện Sùng chính là dịch những tác phẩm có giá trị về đạo đức và văn chương ra chữ Nôm để phổ biến toàn quốc. Vua Quang Trung đọc say mê những sách do Viện Sùng chính biên dịch và xuống Chiếu khích lệ: “Nguyên kỳ trước diễn dịch các sách Tiểu học đã tiến nộp, kỳ này diễn dịch Tứ thư đã xong... Trẫm đã từng xem, Tiên sinh giảng bàn, phu diễn kể đã chăm chỉ. Khi xong công việc bộn bề, Trẫm nghĩ ngơi vui ý đọc sách. Tiên sinh học vấn uyên bác, nên vì Trẫm mà phát huy những ý sách, khiến cho bổ ích thêm”[5]. Mặt khác, vua Quang Trung theo dõi sát sao công việc của Viện Sùng chính và muốn khẩn trương hoàn thành kế hoạch, và thúc giục Viện Sùng chính về những sách vừa mới biên xong chưa kịp xem chữa đã có chiếu đòi nộp. Trong tờ Chiếu gửi Nguyễn Thiếp vào mùa hạ năm 1792 có đoạn: “Nay Chiếu giao Tiên sinh việc giải thích Kinh thi, Kinh thư, Kinh dịch. Thể theo kinh văn tập chú mà lấy từng chữ, từng câu diễn ra quốc âm: cứu xét tinh tường để đọc cho hay. Tiên sinh nên thúc giục những viên hàn lâm Nguyễn Công, Nguyễn Thiện, Hàn Tố Định, Bùi Dương Lịch theo lệnh bản viện mà làm việc và nói với quan bản trấn giao cho hai ba mươi tên văn thuộc tư lại giúp việc biên lục cho Viện, để cho tiện việc. Kinh thi thì dịch gấp đi, dịch xong soạn gửi trước để tiện nộp còn hai Kinh thư và Kinh Dịch sẽ gửi theo sau. Cẩn thận. Chớ chậm trễ”[6]. Vào đầu năm 1792, Viện Sùng chính đã dịch xong bộ Tứ thư, Tiểu học, vua Quang Trung xuống Chiếu tiếp tục sai dịch tiếp các bộ: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch… nhưng không rõ bộ này đã dịch xong chưa. Hiện nay, chỉ tìm được bản Kinh Thi giải âm khắc mộc vào năm Quang Trung thứ 5. Tiếc rằng công việc biên dịch đang tiến hành thì Quang Trung mất đành phải bỏ dở.
Những việc làm và kết quả ban đầu của Viện Sùng chính cho thấy vai trò của Viện trưởng Nguyễn Thiếp trong việc thực hiện chủ trương của vua Quang Trung để tiến tới thay thế tài liệu học tập bằng chữ Nôm, từng bước thoát ly sự lệ thuộc vào văn tự nước ngoài. Chữ Nôm trở thành văn tự chính thức của quốc gia dưới triều Tây Sơn, đánh dấu một thành quả quan trọng của việc bảo tồn, phát huy văn hóa dân tộc, từng bước đẩy lùi tàn dư đồng hóa của các triều đại phương Bắc hàng ngàn năm qua đối với nước ta.
Thi kinh giải âm do Nguyễn Thiếp viết lại
4. Một số cải cách giáo dục và thành quả đạt được dưới triều Tây Sơn
Về nội dung giáo dục: Triều Tây Sơn bỏ lối học từ chương, chú trọng tính thiết thực, sáng tạo nhằm đào tạo những người có năng lực hoạt động thực sự. Tinh thần “học ở sự nghe trông” của vua Quang Trung phù hợp với những ý kiến của Nguyễn Thiếp trong Tờ tấu gửi cho vua Quang Trung bàn luận về Học pháp như sau: “Người không chuốt không thành đồ, người không học không biết đạo. Đạo là lẽ thường để làm người. Kẻ đi học là học điều ấy vậy. Nước Việt ta từ khi lập quốc đến bây giờ, chính học lâu ngày mất. Người ta chỉ tranh nhau đua tập việc học từ chương, cầu công lợi mà quên bẵng có cái giáo Tam cương, Ngũ thường. Chúa tầm thường, tôi nịnh hót. Quốc phá, gia vong, những tệ kia đều ở đó mà ra. Cúi xin từ rày, ban hạ chiếu thư cho trường phủ huyện, khiến thầy trò các trường tư, con cháu các nhà văn võ, thuộc lại ở các trấn cựu triều đều tùy đâu tiện thì đi học" [7]. Qua nội dung Tờ tấu của Nguyễn Thiếp cho biết, ông đã thấu hiểu việc học cầu danh lợi của không ít kẻ sĩ trước đó, đồng thời vạch ra cái lợi của chính học và cái hại của học từ chương, việc học phải được phổ thông có tính đại chúng để mọi người dân đều có thể đi học. Từ đó, đề xuất với vua Quang Trung cần đổi mới giáo dục, nhấn mạnh chính học, việc giảng dạy đạo đức trong trường học, góp phần thu hút nhân tài cho đất nước.Tư tưởng của Nguyễn Thiếp gắn việc học đi đôi với hành, học để vận dụng vào cuộc sống là quan điểm tiến bộ vượt ra ngoài khuôn khổ của Nho giáo thời bấy giờ.
Về phương pháp học tập: Nguyễn Thiếp hiến kế cho vua Quang Trung: “Phép dạy nhất định theo Chu Tử. Trước học Về phương pháp học tập: Nguyễn Thiếp hiến kế cho vua Quang Trung: “Phép dạy nhất định theo Chu Tử. Trước học Tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên rồi đến Tứ Thư, Ngũ Kinh, chư sử. Học cho rộng rồi ước lược cho gọn, theo điều học biết mà làm. Họa may nhân tài mới có thể thành tựu, nhà nước nhờ đó mà vững yên. Ấy thật là có quan hệ tới thế đạo nhân tâm xin chớ bỏ qua. Sự đạo thành thì người tốt nhiều, người tốt nhiều thì triều đình chính và thiên hạ thịnh. Ấy là mấy sự, thành thật xin hiến. Chẳng qua lời nói vu vơ, cúi trông Hoàng thượng chọn lựa cho” [8]. Tuy nhiên, do hạn chế của thời đại, Nguyễn Thiếp vẫn chịu sự chi phối của ý thức hệ Khổng giáo khi bàn về giáo dục, vẫn là phép dạy theo Chu Tử, tài liệu, chương trình học vẫn tuần tự từ Tiểu học, Tứ Thư, Ngũ kinh, các bộ sử nhưng Nguyễn Thiếp đã chú trọng đến tính hệ thống, thực học để ứng dụng những điều học được vào thực tế có hiểu quả.
- Về tổ chức thi cử: Ngay từ năm 1789, triều Tây Sơn đã mở kỳ thi đầu tiên ở Nghệ An [9]. Theo đó, trong Chiếu lập học, vua Quang Trung quy định những người trúng tuyển các kỳ thi Hương gọi là Tú tài, hạng ưu được sung vào quốc học, hạng thứ cho vào phủ học. Để thanh toán chế độ khoa cử thối nát thời Lê – Trịnh, vua Quang Trung bắt các hạng nho sinh, sinh đồ phải thi lại, hạng ưu thì công nhận, hạng liệt thì bắt học lại ở các trường xã, hạng “sinh đồ ba quan” thì thải về địa phương [Sinh đồ ba quan là cách nói mỉa mai trong dân gian thời Lê – Trịnh chỉ cần nộp ba quan tiền là được công nhận Sinh đồ].
Có thể thấy, vua Quang Trung đã cố gắng xây dựng một chính quyền quân chủ tiến bộ nhưng do điều kiện lịch sử, bộ máy quân chủ triều Tây Sơn căn bản vẫn không khác bộ máy cũ với một số lớn quan lại thời Lê – Trịnh từ trung ương đến thôn xã. Vì vậy, vua Quang Trung đã dốc nhiều tâm sức vào thực hiện các chính sách cải cách giáo dục với mong muốn xây dựng một nền giáo dục học thuật, bên cạnh giáo dục đại chúng nhằm nâng cao ý thức độc lập tự cường, thoát ly những ràng buộc của nền giáo dục khuôn mẫu từ trước đến nay. Tuy chỉ mới thực hiện trong thời gian ngắn những cải cách trên đã đạt được thành quả đáng khích lệ, trong đó chữ Nôm đã trở thành văn tự chính thức quốc gia. Vua Quang Trung mạnh dạn đánh đổ độc tôn chữ Hán của các triều đại trước, từ đây tất cả chiếu chỉ, mệnh lệnh đến bài văn tế phần lớn đều viết bằng chữ Nôm và lần đầu tiên trong lịch sử chữ Nôm được triều Tây Sơn đưa vào khoa cử. Trong các kỳ thi quan trường phải ra đề bằng chữ Nôm và đến đệ tam trường sĩ tử phải làm thơ bằng chữ Nôm.
Mặt khác, nhờ sự khuyến khích và cải cách giáo dục của vua Quang Trung mà văn chương chữ Nôm thời Tây Sơn được thịnh vượng, thời kỳ này nhiều nhà văn Nôm xuất hiện với những tên tuổi nổi bật như: Phan Huy Ích, Nguyễn Huy Lượng, Lê Ngọc Hân và đặc biệt là nữ sĩ Hồ Xuân Hương được gọi là Bà chúa thơ Nôm. Nhiều tác phẩm được viết bằng chữ Nôm như: Hoa Tiên truyện, Mai Đình Mộng ký, Chinh Phụ ngâm diễn nôm, thơ Hồ Xuân Hương, thơ La Xuân Kiều có vị thế xứng đáng trong kho tàng văn học dân tộc.
5. Kết luận
Triều Tây Sơn đang thực thi chính sách cải cách giáo dục tốt đẹp thì vua Quang Trung đột ngột qua đời đã làm cho thời cuộc chuyển biến nhanh chóng, Viện Sùng chính sụp đổ, tất cả sách vở, tài liệu và những thành quả đạt được bị thủ tiêu, xóa bỏ. Tuy vậy, những đóng góp của La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp và Viện Sùng chính không phải là vô ích mà đến nay còn nguyên giá trị và đối với ông những năm tháng làm Viện trưởng Viện Sùng chính có lẽ là thời gian có ý nghĩa nhất trong cuộc đời. Những đóng góp của La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp đối với chính sách cải cách giáo dục và tư tưởng của ông về giáo dục, đào tạo nhân tài đến nay vẫn có nhiều giá trị đối với sự nghiệp giáo dục và chấn hưng văn hóa./.
Chú Thích:
[1] Hoàng Xuân Hãn, La Sơn phu tử,NXB Minh Tân, Paris, 1952, tr.148.
[2] Hoàng Xuân Hãn, La Sơn phu tử, NXB Minh Tân, Paris, 1952, tr.144.
[3] Ngô Thì Nhậm tuyển tập, Tập II, NXB Khoa học Xã hội, 1978, tr.127.
[4] Hoàng Xuân Hãn, La sơn phu tử, NXB Minh Tân, Paris, 1952, tr.148.
[5] Hoàng Xuân Hãn, La Sơn phu tử, NXB Minh Tân, Paris, 1952tr.152.
[6] Hoàng Xuân Hãn, La Sơn phu tử, NXB Minh Tân, Paris, 1952tr.156.
[7] Hoàng Xuân Hãn, La Sơn phu tử, NXB Minh Tân, Paris, 1952tr.145-146.
[8] Tờ tấu của Nguyễn Thiếp gửi cho vua Quang Trung năm 1791.
[9] Theo tư liệu của giáo sư Hoàng Xuân Hãn: “ Mùa thu năm Quang Trung thứ 2, triều Tây Sơn đã tổ chức thi học trò ở Nghệ An... Trong một vài gia phả dòng họ trên địa bàn Hà Tĩnh còn thấy chép những người đậu khoa Tuấn sĩ (thi Hương) đời Tây Sơn.
Tài liệu tham khảo:
1. Võ Hồng Huy, Chủ biên, (2015), Địa chí huyện Can Lộc, NXB Nghệ An.
2. Thái Kim Đỉnh, (2017) Hà Tĩnh đất và người, Tập 3, NXB Đại học Vinh.
3. Hoàng Xuân Hãn, (1952), La Sơn phu tử, NXB Minh Tân, Paris.
4. Nguyễn Thế Long, (1995), Nho học ở Việt Nam, NXB Giáo dục.
5. Viện Nghiên cứu Hán Nôm, (1978), Ngô Thì Nhậm Tuyển tập, Tập II, NXB Khoa học xã hội.
6. Quách Tấn Quách Giao, (2015), Nhà Tây Sơn, NXB Thanh niên.
7. Sở Văn hóa Thông tin Hà Tĩnh, (1998), Danh nhân Hà Tĩnh.
8. Viện sử học, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 154 tháng 1 và 2, chuyên đề về phong trào Tây Sơn, 1974.