Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Hà Tĩnh với điều kiện tự nhiên là một tỉnh ven biển thuộc khu vực Bắc Trung Bộ với đường bờ biển dài từ Bắc xuống Nam nên văn hóa bị chi phối rất lớn bởi yếu tố biển từ thời kỳ tiền sơ sử cho đến tận ngày nay, đặc biệt là các địa phương ven biển cả về khía cạnh mưu sinh, ăn ở, đi lại cho đến tín ngưỡng tôn giáo. Về tín ngưỡng tôn giáo, do sống phụ thuộc vào biển cả mà các tín ngưỡng thờ vị thần biển và các vị thần liên quan đến biển, cả nhiên thần và nhân thần xuất hiện khá đậm đặc ở đây. Trong quan niệm của công đồng cư dân nơi đây, các vị thần này thường giúp đỡ, che chở, phù hộ cư dân nơi đây tai qua nạn khỏi, ngư dân thì đi biển tôm cá đầy khoang, tránh được mưa gió, bão tố, nắng hạn, tai ương mà biển cả gây ra, làm cho người làm nông nghiệp thì được mùa… Trong số đó, vị nhiên thần Cá Ông được phong thần như: Nam Hải Nhân Ngư, Đông Hải Nhân, Đông Hải Cự Ngư, Ngư Ông Ngọc Lân là tiêu biểu.
Song song với việc tồn tại tín ngưỡng dân gian thờ Cá Ông là việc hình thành một hệ thống các di tích lịch sử - văn hóa được bố trí trải rộng khắp các xã huyện ven biển Hà Tĩnh: Nghi Xuân, Lộc Hà, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh thể hiện được bề dày lịch sử, văn hóa, bản sắc văn hóa vùng miền của địa phương mà ít lặp lại ở các vùng miền khác. Là di sản quý báu của các thế hệ tiền nhân để lại nên việc bảo tồn và phát huy giá trị các di tích thờ Cá Ông ở ven biển Hà Tĩnh là hết sức cần thiết.
Lễ rước kiệu trong Lễ hội Cầu ngư làng Cam Lâm (Nghi Xuân)
1. Hệ thống di tích thờ Cá Ông ở Hà Tĩnh
Tục thờ ông Cá Ông có từ lâu đời, xuất hiện ở nhiều vùng ven biển của nước ta. Ông Nam Hải còn có nhiều tên gọi khác như cá “Đức Ông”, “Đức Ngư Ông”, Cá Ông. Thường khi cá chết dạt vào bờ ở địa phận làng nào thì làng đó tổ chức an táng và lập miếu thờ cúng rất linh thiêng. Tại các vùng ven biển Hà Tĩnh có nhiều đền miếu thờ Cá Ông như Đền Cô, đền Cậu, xã Xuân Hội, Đền Cá Ông, xã Xuân Yên, Đền Đông Hải, xã Xuân Liên - Nghi Xuân, Miếu Ngư Ông, xã Cẩm Nhượng – Nghi Xuân, Miếu Đức Ông ở xã Kỳ Khang, huyện Kỳ Anh,... Các nghi thức liên quan đến ông Nam Hải ngày nay ở các di tích thờ Cá Ông thường được gọi với các tên gọi khác nhau tùy theo từng vùng miền như Lễ hội Cầu ngư, Lễ hội nghinh Ông, Lễ hội tế Cá Ông, Lễ cúng Ông thường được tổ chức nhằm làm chỗ dựa tinh thần cho người dân đi biển ra khơi vào lộng bình yên. Ngư dân ven biển thường quan niệm, Cá Ông (Cá Voi) là đấng thần linh, sinh vật thiêng của biển cả, có bản tính hiền hòa thường che chở, giúp đỡ những ngư dân gặp nạn trên biển. Lễ hội thường được tổ chức ở cư dân vùng biển với mục đích cầu an, cầu mùa: Cầu cho phong hòa vũ thuận, đánh bắt được nhiều hải sản, cũng cố thêm sức mạnh cho ngư dân đi biển.
Lễ hội Cầu ngư thì thường tổ chức ở các đền, miếu thờ Cá Ông. Ở Hà Tĩnh, một số địa phương có tổ chức lễ hội cầu ngư như ở xã Cẩm Nhượng – Cẩm Xuyên, ở xã Xuân Hội, xã Cương Gián, xã Xuân Liên - Nghi Xuân... Tuy cùng là lễ hội cầu ngư nhưng mỗi nơi có những nét độc đáo riêng cả về thời gian, các bước tiến hành lễ hội, quy mô tổ chức, các thành tố cấu thành lễ hội… có thể nhận diện như phần lễ thả thuyền biểu tượng để Lễ yết, lễ tước linh vị, sắc phong trên bờ, lễ cầu ngư ngoài biển, lễ tế tại di tích, đặc biệt là phần nghệ thuật biểu diễn truyền thống – diễn xướng dân gian như hò chèo cạn, trò kiều, dân ca ví – giặm, trò chơi dân gian đi cà kheo và các môn thể thao vật cổ truyền, đua thuyền, kéo co, đánh cờ người, đánh bóng chuyền bãi biển nam, nữ.
Truyền thuyết về tục thờ Cá Voi còn được truyền lại cho đến ngày nay. Theo thần thoại của người Chăm, Cá Voi là hiện thân của Cha-Aih-Va. Sau thời gian rèn luyện phép thuật, do cải lời thầy mà biến thành Cá Voi, ra sông lớn mà đi nên sau đó đã bị trừng phạt. Cha-Aid-Va đổi tên, tự xưng là Po-Riyah, là thần sóng biển, cũng có lúc hóa thân thành thiên nga, thường giúp đỡ và trở thành ân nhân của ngư dân trên biển. Theo truyền thuyết Phật giáo, thì xưa kia Phật Bà Nam Hải Quan Âm khi tuần du Nam Hải thương xót cho cảnh ngư dân bị chết do đắm thuyền lúc bão tố. Để cứu vớt họ, bà xé thành nhiều mảnh nhỏ chiếc áo cà sa của mình ném xuống biển và cho biến thành loài Cá Voi, rồi lại ban cho “phép thâu đường” để bơi nhanh cứu vớt người bị nạn trên biển. Từ đó, loài cá này được xem là thần linh của biển khơi. Còn có truyền thuyết khác nữa là, trong cuộc chạy trốn khỏi sự truy đuổi của quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh, sau này là người sáng lập ra nhà Nguyễn trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, đến vịnh Xiêm La thì gặp nạn do giông tố thì được Cá Ông giúp đỡ đưa vào đảo Thổ Chu. Sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã nhớ tới ơn này nên ban sắc phong cho loài Cá Ông là Nam Hải Đại tướng quân [1] .
Sắc phong cho thần Ngư Ông Ngọc Lân thờ tại Đền Ngư Ông
(xã Thạch Hải - Thạch Hà)
Căn cứ các bản sắc phong ở các huyện Nghi Xuân, Thạch Hà, Lộc Hà, Cẩm Xuyên còn sót lại thì ít nhất tục thờ Cá Ông có từ thời Nguyễn, cách đây hàng trăm năm. Hiện, Đền Đông Hải lưu giữ 02 sắc phong thời Nguyễn, năm Thành Thái thứ 6 (1894) và năm Khải Định thứ 9 (1924) giao cho trang Cam Lâm, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh (nay thuộc xã Xuân Liên - Nghi Xuân) phụng thờ vị tôn thần Đông Hải Cự Ngư Linh Ứng Chi Thần (東海巨魚靈應之神), hay Đông Hải Linh Ứng tôn thần (東海靈應尊神); Sắc phong thời Nguyễn ở Miếu Ngư Ông giao cho xã Cẩm Nhượng – Cẩm Xuyên thờ phụng Nam Hải Nhân Ngư chi thần (南海仁魚之神); sắc phong ở Đền Đông Phương giao cho xã Thạch Kim – Lộc Hà thờ phụng Đông Hải Nhân Ngư chi thần (東海仁魚之神). Sắc phong ở Đền Đại Hải giao cho xã Thạch Hải – Thạch Hà phụng thờ Cự tộc Nhân Ngư chi thần (巨族仁魚之神), Đại Ngư Ông Ngọc Lân chi thần (大魚翁玉鱗之神). Thần thường hiển hiện linh thiêng, hộ quốc tý dân. Sắc phong có những mỹ tự ca ngợi sự rạng rỡ tốt đẹp của thần như Dực bảo trung hưng linh phù chi thần, Trác vĩ thượng đẳng thần.
Như vậy, tục thờ Cá Ông xuất phát từ nhu cầu cuộc sống cộng đồng, phản ánh ước vọng của con người. Thông qua đó, con người được đắm chìm trong văn hóa dân tộc, đồng thời để biểu hiện mong muốn về sự phồn thịnh và niềm tin tín ngưỡng, giải tỏa những nổi lo, những băn khoăn mà con người chưa giải thích được. Tục thờ Cá Ông cũng biểu hiện sức mạnh của cộng đồng, thắt chặt tình đoàn kết trong sản xuất và chiến đấu; hướng con người trở về cội nguồn, về dân tộc, về văn hóa, làm cho nó có nét riêng.
Trong số di tích lịch sử - văn hóa thờ Cá Ông thì di tích Miếu Ngư Ông, xã Nhượng Bạn xưa, nay thuộc xóm Phúc Hải, xã Cẩm Nhượng – Cẩm Xuyên là di tích quy mô hơn cả về khía cạnh di tích và lễ hội. Miếu Ngư Ông đã được Nhà nước công nhận di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh. Lễ hội Cầu ngư ở Miếu Ngư Ông đã được Nhà nước đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Theo các sắc phong thời Nguyễn lưu giữ tại di tích thì Miếu Ngư Ông có niên đại ít nhất vào thời Nguyễn. Xưa kia di tích có quy mô nhỏ. Hiện nay, nhằm đáp ứng nhu cầu tổ chức tế lễ, lễ hội, Miếu Ngư Ông đã được trùng tu tôn tạo lại với nghi môn, bái đường và hậu cung bố trí đăng đối, hài hòa với thiên nhiên, mặt hướng ra Biển Đông, xung quanh có hàng chục mộ Cá Ông lụy vào bờ và được nhân dân an táng tại đây. Lễ hội Cầu ngư được tổ chức vào ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch hàng năm thu hút được đông đảo công đồng cư dân tham gia. Phần lễ được tổ chức bài bản theo truyền thống từ xưa tới nay bao gồm phần rước kiệu và tế thần và thả long châu ngoài biển cho đến tế lễ ở Miếu Ngư Ông. Phần hội nổi bật với diễn xướng hò chèo cạn, đi cà kheo, đánh cờ người, đua thuyền...
Ngoài ra, Đền Đông Hải xã Xuân Liên, huyện Nghi Xuân là một di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh chứa đựng nhiều giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Di tích là nơi an táng hàng chục Cá Ông lụy bờ. Dưới thời phong kiến, di tích đã được các vị vua triều Nguyễn phong thần là Cá lớn Biển Đông giao cho trang/làng Cam Lâm thờ phụng. Hiện di tích được tu bổ tôn tạo khá bề thế và khang trang. Lễ hội Cầu ngư làng Cam Lâm thường được tổ chức trọng thể và thành kinh thu hút cộng đồng tham gia đông đúc. Ngoài tế tễ ở Đền Đông Hải và bờ biển lễ hội còn có đi cà kheo, đấu vật, hát ví dặm, thả thuyền long châu... Hiện lễ hội đang được UBND tỉnh Hà Tĩnh trình Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đề nghị đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Đền Cá Ông là di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh tọa lạc tại xã Xuân Yên, huyện Nghi Xuân trên một khuôn viên rộng có kiến trúc hình chữ Nhất (一) bao gồm tắc môn, sân đền và điện thờ. Cứ đến ngày Cá Ông lụy bờ, 24 tháng Giêng âm lịch hàng năm, dân làng tổ chức lễ hội Cầu ngư tại đền Cá Ông. Lễ hội được cộng đồng chuẩn bị chu đáo, lễ vật là đồ chay, không có hải sản. Lễ gồm có yết cáo và tế. Buổi sáng, cộng đồng tổ chức rước dấu ấn của Ngư Ông từ đền ra thuyền ngoài bờ biển. Các thuyền được kết hoa trang trí. Những người phụ trách nghi lễ thường cao niên, hiền đức và uy tín, người chủ tế đọc chúc văn nêu lên sự biết ơn của cộng đồng đối với Ngư Ông và cầu mong đánh bắt hải sản bội thu, an toàn. Phần hội có đốt lửa trại, hát ví giặm, diễn trò Kiều, hát bả trạo; đua thuyền, chèo bơi, kéo co.
Đền Đông Phương, xã Thạch Kim – Lộc Hà là di tích thờ nhiều vị thần trong đó có thần Đông Hải Nhân Ngư. Sắc phong Thành Thái (1894) và sắc phong Duy Tân (1909) giao cho xã Kim Đôi phụng thờ vị thần Trừng Trạm Dực Bảo Trung Hưng Đông Hải Nhân Ngư, ngõ hầu thần giúp hộ quốc tý dân. Lễ hội Cầu ngư ở Đền Đông Phương có lễ thả thuyền long châu bằng giấy, trên đó có 36 âm binh, nước gạo, dụng cụ bắt cá... Thuyền được rước ra ngoài biển cách 12 đến 15 hải lý. Đền Đông Phương ngoảnh về hướng Đông Nam gồm: Nghi môn, ngũ lâu, tắc môn, hạ điện, trung điện và thượng điện nằm đối xứng trên trục thần đạo.
Đền Cô Đền Cậu ở xã Xuân Hội – Nghi Xuân cũng là di tích thờ Cá Ông. Khi cá lụy bờ người dân khâm lượm, mai táng. Trước đây, ở xã Xuân Hội có 3 lần như vậy. Lần thứ nhất là con Cá Voi lớn, người ta lập đền thờ gọi là Đền Ông. Lần hai là 2 con Cá Voi nhỏ hơn, 1 con đực và con cái, xã lập 2 đền để thờ gọi là Đền Cô và Đền Cậu. Đền có kiến trúc mặt bằng chữ Đinh (丁), ngoảnh về hướng Đông trông ra biển. Ngoài điện thờ, hậu cung là nơi thờ đặt mộ của hơn chục con Cá Ông. Trước đây, đền có 3 đạo sắc, 1 thời Thành Thái, 2 thời Khải Định. Lễ Cầu ngư được tổ chức tại di tích vào tháng 3 âm lịch hàng năm được tổ chức trên cạn và dưới nước. Trong văn tế thường có ghi “Nam Hải đức nhân ngư cự lân đệ nhị trung đẳng thần cô” và “Nam Hải thanh ngư đệ tứ lang tôn thần cậu”. Phần hội thường có thi chèo bơi giữa các vạn chài.
Bảng thống kê các di tích thờ Cá Ông
STT |
Tên di tích |
Địa điểm |
Ghi chú |
1 |
Miếu Cô, Miếu Cậu |
Xã Xuân Hội – Nghi Xuân |
Đã xếp hạng |
2 |
Đền Đông Hải |
Xã Xuân Liên – Nghi Xuân |
Đã xếp hạng |
3 |
Đền Cá Ông |
Xã Xuân Yên – Nghi Xuân |
Đã xếp hạng |
4 |
Đền Đông Phương |
Xã Thạch Kim – Lộc Hà |
Đã xếp hạng |
5 |
Đền Đại Hải |
Xã Thạch Hải – Thạch Hà |
Đã xếp hạng |
6 |
Miếu Ngư Thần |
Xã Thạch Hải – Thạch Hà |
Chưa xếp hạng |
7 |
Đền Ngư Ông |
Xã Thạch Hải – Thạch Hà |
Chưa xếp hạng |
8 |
Đền Ngư Thần |
Xã Thạch Văn – Thạch Hà |
Chưa xếp hạng |
9 |
Miếu Kỳ Nhang |
Xã Cẩm Dương – Cẩm Xuyên |
Chưa xếp hạng |
10 |
Miếu Nhân Ngư |
Xã Yên Hòa – Cẩm Xuyên |
Chưa xếp hạng |
11 |
Miếu Vũng Tàu |
Xã Yên Hòa – Cẩm Xuyên |
Phế tích |
12 |
Miếu Ngư Ông |
Xã Cẩm Nhượng – Cẩm Xuyên |
Đã xếp hạng |
13 |
Miếu Đức Ông |
Xã Kỳ Khang – Kỳ Anh |
Chưa xếp hạng |
2. Thực trạng công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di tích thờ Cá Ông ở Hà Tĩnh
Di tích thờ Cá Ông ở Hà Tĩnh có số lượng không lớn so với tổng di tích được kiểm kê trên địa bàn Hà Tĩnh. Từ khi Luật Di sản văn hóa được ban hành năm 2000, ngành văn hóa, thể thao và du lịch có đầy đủ cơ sở pháp lý để bảo tồn và phát huy giá trị di tích. Hiện nay, Hà Tĩnh đã có 1.800 di tích được kiểm kê toàn tỉnh, trong đó có 550 di tích đã được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh, 86 di tích quốc gia, 2 di tích quốc gia đặc biệt. Theo thống kê của Bảo tàng tỉnh, di tích thờ Cá Ông ở Hà Tĩnh hiện nay có 12 di tích, trong đó có 6 di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh. Các di tích được xếp hạng thuộc diện quản lý Nhà nước đang được chăm sóc, bảo quản và phát huy giá trị tốt. Hàng năm, ngân sách nhà nước cấp hàng chục tỷ để tu bổ, tôn tạo chống xuống cấp. Ngoài ra, công tác xã hội hóa trong bảo tồn di tích cũng có nhiều điểm đáng khích lệ. Nhiều di tích được các doanh nghiệp lớn, chủ sở hữu di tích và nhân dân huy động kinh phí để đầu tư tu bổ tôn tạo góp phần biến di sản văn hóa vật thể này trở thành nguồn lực, tài nguyên văn hóa phát triển kinh tế xã hội của địa phương, trong đó tiêu biểu có Đền Đông Hải, xã Xuân Liên, huyện Nghi Xuân đã huy động hàng tỷ đồng để tu bổ và tôn tạo làm cho di tích trờ nên khang trang, thâm nghiêm phục vụ tốt nhu cầu đời sống tín ngưỡng của cộng đồng. Sau khi được xếp hạng, các di tích tuy có chủ sở hữu khác nhau nhưng đều được chính quyền cấp xã trực tiếp quản lý, ngành văn hóa hướng dẫn chuyên môn theo Luật Di sản văn hóa. Ngoài ra, các lễ hội gắn với di tích cũng được cộng đồng sở hữu và thực hành di sản quan tâm duy trì hàng năm, trong đó lễ hội Cầu ngư Nhượng Bạn đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2021; lễ hội Cầu ngư làng Cam Lâm, xã Xuân Liên, huyện Nghi Xuân đang lập hồ sơ khoa học đề nghị công nhận.
Ngành văn hóa thường xuyên tổ chức các đợt thanh, kiểm tra các hoạt động tại di tích, kịp thời chấn chỉnh các hoạt động làm sai lệch di tích gốc, mê tín dị đoan… ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục, vi phạm Luật Di sản văn hóa. Hàng năm, Cục Di sản văn hóa tổ chức tốt các hoạt động tập huấn nghiệp vụ về di sản, giúp các công chức, di sản viên cập nhật kiến thức phục vụ tốt nhiệm vụ công tác.
Các di tích thờ Cá Ông ở Hà Tĩnh chủ yếu chủ sở hữu công đồng cư dân nên việc huy động nguồn lực xã hội hóa là chủ yếu, có chăng, Nhà nước chỉ hỗ trợ thêm nhằm khuyến khích trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di tích. Các di tích thường có niên đại hàng trăm năm, lại thường nằm sát biển, chịu ảnh hưởng của mưa gió, bão tố nên tình trạng xuống cấp là không tránh khỏi, việc tu bổ tôn tạo đúng khoa học bảo tồn di tích cũng chưa thực sự đáp ứng đầy đủ và bài bản dẫn đến một số di tích gặp khó khăn trong phát huy giá trị. Nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao ở địa phương còn ít cũng gây khó khăn không nhỏ trong quá trình tu bổ và tôn tạo và phát huy gia trị di tích. Việc kết nối các di tích thành một hệ thống trên toàn tỉnh để phục vụ phát triển du lịch tâm linh, du lịch văn hóa ở Hà Tĩnh cũng chưa thực hiện được. Công tác chuyển đổi số trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích hầu như chưa được thực hiện dân tới việc khai thác, quảng bá phát huy giá trị di tích gặp nhiều khó khăn.
3. Các giải pháp tăng cường công tác bảo tồn và phát huy các giá trị các di tích thờ Cá Ông ở Hà Tĩnh
- Bảo tàng hóa các hoạt động của di tích là giải pháp cần thực hiện trong giai đoạn hiện nay. Đó là việc áp dụng các kiến thức bảo tàng học trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di tích trên cơ sở tôn trọng, coi di tích và hiện vật gốc gắn liền với di tích là đối tượng ưu tiên trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích. Áp dụng các nghiệp vụ bảo tàng như: Sưu tầm, kiểm kê – tư liệu hóa, bảo quản – phục chế, trưng bày tuyên truyền và xây dựng chương trình giáo dục, trong đó việc sưu tầm bổ sung các tài liệu hiện vật liên quan tín ngưỡng thờ Cá Ông được coi là khâu công tác đầu tiên làm cơ sở cho các khâu công tác khác. Tiếp đó, công tác kiểm kê khoa học – tư liệu hóa di tích gốc và hiện vật gốc sẽ góp phần bổ sung thêm những thông tin nội dung lịch sử di tích và hiện vật biến di tích, hiện vật “chết” thiếu thông tin thành di tích, hiện vật “sống” chứa nhiều thông tin thông qua việc nghiên cứu đa ngành: dân tộc học, Hán Nôm học, di sản học, sử học và khảo cổ học. Từ đó, đề ra phương án bảo quản nhằm kéo dài tuổi thọ di tích và hiện vật gốc đến mức tối đa. Thêm vào đó, phục chế di tích và hiện vật trên cơ sở nghiên cứu khoa học sẽ làm phong phú thêm đối tượng cần bảo quản và phát huy. Trên cơ sở các hoạt động đó, việc dành các không gian thích hợp để trưng bày các hiện vật: Các kỷ vật, sắc phong, bằng cấp, thần tích và các văn bản Hán Nôm khác liên quan đến tín ngưỡng thờ Cá Ông một cách khoa học kết hợp với việc xây dựng các chương trình giáo dục là hết sức cần thiết để giới thiệu cho công chúng thêm hiểu biết về di sản.
- Tăng cường chuyển đổi số, số hóa, ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại trong bảo tồn và phát huy giá trị di tích là xu hướng tất yếu khi mà cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã ảnh hưởng sâu rộng đến tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội. Việc ứng dụng chuyển đổi số hoạt động di tích nói chung và di tích thờ Cá Ông ở Hà Tĩnh cần được ưu tiên nhằm rút ngắn không gian và thời gian của công chúng trong việc tìm hiểu nội dung và giá trị của di tích. Di tích trở nên sống động, giàu tính hấp dẫn khi được ứng dụng công nghệ cao trong bảo tồn và phát huy giá trị. Việc trước mắt là tạo một quỹ mã QR Code cho di tích trên cơ sở kiểm soát chất lượng của nội dung thể hiện nhằm cung cấp cho các nhà quản lý cho đến các doanh nghiệp du lịch, trường học, các tổ chức chính trị xã hội … trên địa bàn mong muốn tìm hiểu về di sản văn hóa liên quan đến tín ngưỡng thờ Cá Ông mà kinh phí thực hiện rất ít từ đó nhân rộng cho toàn hệ thống di tích toàn tỉnh.
- Tuyên truyền Luật Di sản văn hóa trong bảo vệ và phát huy các giá trị của di tích nói chung và di tích thờ Cá Ông ở Hà Tĩnh là giải pháp cần thiết. Luật Di sản văn hóa được bàn hành là cơ sở pháp lý quan trọng, có tính chất bản lề trong công tác bảo tồn – bảo tàng. Việc tuyên truyền luật đến với các chủ sở hữu di tích và cán bộ cơ sở phải là việc làm thường xuyên góp phần quan trọng trong việc tránh làm sai lệch giá trị di tích, bảo tồn nguyên trạng các di tích, hiện vật gốc và tăng cường giáo dục di sản hướng tới việc khai thác bền vững phục vụ phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội ở địa phương.
- Tiến hành giáo dục di sản tín ngưỡng Cầu ngư ở trường học thông qua các cuộc tham quan, dã ngoại ngoài trường học cũng là việc làm cần thiết để thế hệ trẻ có ý thức trân trọng, giữ gìn di sản của tiền nhân cho hôm nay là mai mai, góp phần bổ sung, làm phong phú thêm kiến thức lịch sử, văn hóa của địa phương tại các trường học trên địa bàn toàn tỉnh.
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là giải pháp quan trọng, làm cơ sở để nâng cao chất lượng hoạt động di tích. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, việc đào tạo, tập huấn nghiệp vụ bảo tồn – bảo tàng cho cán bộ cơ sở cấp xã, cấp huyện và chủ sở hữu di tích đang còn hạn chế thì giải pháp này đưa ra sẽ khắc phục được vấn đề. Việc quan trọng trước mắt là nghiệp vụ hướng dẫn, xây dựng chương trình giáo dục và công tác bảo quản chống xuống cấp di tích.
- Tăng cường công tác quản lý Nhà nước, hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ, kết nối di sản, tổ chức hội thảo khoa học, biên soạn, xuất bản ấn phẩm, hợp tác quốc tế trong tu bổ và tôn tạo di tích liên thờ Cá Ông ở Hà Tĩnh cũng là những giải pháp cần tham khảo. Việc tăng cường thường quản lý Nhà nước đối với di tích được coi là giải pháp bản lề, vừa trước mắt vừa lâu dài vừa đảm bảo cho di tích hoạt động đúng pháp luật, đúng chuyên môn nghiệp vụ, đồng thời tạo hành lang pháp lý cho việc xã hội hóa công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích. Việc hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động di tích, tránh được những mặt tiêu cực hạn chế có thể xẩy ra trong công tác bảo tồn và phát huy gia trị di tích. Việc tổ chức hội thảo khoa học, xuất bản ấn phẩm về di tích thờ Cá Ông ở Hà Tĩnh sẽ góp phát phát hiện nhiều thông tin mới, cập nhật những kiến thức mới, phổ biến rộng rải đến các nhà khoa học, nhà quản lý và công chúng nói chung về di tích, về danh nhân.
Khôi phục các lễ hội gắn với các di tích thờ Cá Ông ở Hà Tĩnh là hết sức cần thiết. Trước tiên là tiến hành công tác kiểm kê di sản phi vật thể gắn liền với tục thờ Cá Ông. Từ đó cho chúng ta thấy quy mô, tiềm năng, biết được mức độ bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Thứ nữa, đối với các lễ hội còn được trao truyền cho đến các thế hệ hôm nay thì cần khảo sát nghiên cứu đề xuất với các cơ quan chức năng lập hồ sơ khoa học trình cấp có thẩm quyền quyết định đưa lễ hội vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Đối với các lễ hội thất truyền thì cần có kế hoạch đi sâu vào nghiên cứu các thành tố cấu thành lễ hội từ đó khôi phục lại lễ hội. Ngoài ra, cần có chính sách bồi dưỡng chuyên môn cũng như có chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với các nghệ nhân thực hành di sản nghệ thuật biểu diễn truyền thống gắn với lễ hội như dân ca ví giặm, hò chèo cạn… đề di luôn được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác một cách bền vững và liên tục.
Cần xếp hạng các di tích thờ Cá Ông là di tích lịch sử - văn hóa nhằm tạo cơ sở khoa học và pháp lý cho việc bảo tồn và phát huy các di tích thờ Cá Ông ở Hà Tĩnh, góp phần kêu gọi xã hội hóa và quảng bá các giá trị di sản đến với khách tham quan trong nước và thế giới.
Cần có một đề tài nào nghiên cứu về các di tích, tín ngưỡng thờ Cá Ông ở Hà Tĩnh một cách toàn diện và bài bản nhằm làm cơ sở khoa học cho các cơ quan chức năng hoạch định chính sách khai thác phục vụ công tác giáo dục di sản và phát triển du lịch văn hóa gắn với du lịch biển ở Hà Tĩnh.
Kết nối các di tích thờ Cá Ông vùng ven biển Hà Tĩnh từ huyện Nghi Xuân đến thị xã Kỳ Anh thành tua du lịch văn hóa tín ngưỡng góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho Nhân dân và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Kết luận
Tóm lại, hệ thống các di tích lịch sử - văn hóa thờ Cá Ông vùng biển Hà Tĩnh đang trở thành nguồn tài nguyên quý báu nhằm phát triển kinh tế, văn hóa xã hội của tỉnh Hà Tĩnh. Nhiệm vụ của chúng ta là phải không ngừng gìn giữ, bảo vệ, bảo tồn những di tích danh thắng có giá trị cao về lịch sử, văn hóa, khoa học và thẩm mỹ, làm cơ sở cho việc khai thác, phát huy bền vững những bản sắc riêng có của địa phương, tạo ra lợi thế cạnh tranh cho Hà Tĩnh trở thành tỉnh phát triển toàn diện, góp phần tạo động lực và là mục tiêu cùng cả nước hội nhập khu vực và quốc tế./.
Chú thích:
[1] Theo Lý lịch di tích lịch sử-văn hóa Miếu Đức Ngư Ông, xã Cẩm Nhượng, huyện Cẩm Xuyên, Lý lịch di tích lịch sử - văn hóa Đền Cô, đền Cậu, xã Xuân Hội, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh lưu tại Bảo tàng Hà Tĩnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Duy Báu (2016), Lịch sử Hà Tĩnh, Tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia Sự Thật.
2. Lê Văn Diễn (2001), Nghi Xuân địa chí, UBND huyện Nghi Xuân.
3. Thái Kim Đỉnh (Chủ biên – 2015), Địa chí Thạch Hà, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
4. Thái Kim Đỉnh (Chủ biên - 2011), Địa chí huyện Kỳ Anh, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
5. UBND huyện Nghi Xuân (2021), Nghi Xuân di tích và danh thắng, Nxb Đại học Vinh, Nghệ An.
6. Nguyễn Trí Sơn (Chủ biên - 2014), Di tích Lịch sử - Văn hóa Thạch Hà, Nxb Nghệ An, Nghệ An.
7. Bùi Thiết (Chủ biên – 2020), Địa chí huyện Cẩm Xuyên, Nxb Đại học Vinh, Nghệ An.
8. Bùi Thiết (2000), Từ điển Hà Tĩnh, Sở VH-TT Hà Tĩnh.
9. Hồ sơ các di tích lịch sử - văn hóa lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Hà Tĩnh.
10. Bảo tàng tỉnh Hà Tĩnh (2020), Hồ sơ Di sản phi vật thể quốc gia Lễ hội Cầu ngư Nhượng Bạn, lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh.