Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Cuối thế kỷ 15 đầu thế kỷ 16, những phát kiến địa lý của châu Âu đã mở rộng và phát huy hơn nữa vai trò của Con đường tơ lụa trên biển có từ đầu Công nguyên. Các cường quốc biển như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh, Pháp... lần lượt thống trị hoạt động buôn bán Á-Âu, từ đó tạo nên bối cảnh nhộn nhịp chưa từng có trong quan hệ hải thương ở khu vực Đông Nam Á[1]. Việt Nam là một trong những nước từ rất sớm đã dự nhập và hoạt động hải thương thời kỳ này.
Khai quật thám sát khảo cổ khu vực nhà thờ Trần Tịnh
Tại Nhật Bản, hiện còn một số văn thư cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17 do chúa Nguyễn và các quan cai trị Đại Việt gửi cho chính quyền Nhật Bản, ghi nhận việc bang giao và trao đổi thương mại giữa hai nước. Trong số ấy, đáng chú ý là văn thư viết vào năm 14 niên hiệu Quang Hưng (1591) do An Nam quốc Phó đô đường Phúc Nghĩa hầu, họ Nguyễn, gửi cho quốc vương Nhật Bản đề nghị thiết lập quan hệ bang giao với An Nam quốc. Đây là văn thư do chính quyền Đàng Trong chủ động gửi cho chính quyền Nhật Bản có niên đại sớm nhất được phát hiện từ trước đến nay.
Cũng trong bối cảnh ấy, Nhật Bản đã chủ động và tích cực tham gia mạng lưới hải thương Á-Âu bằng chính sách Châu ấn thuyền của Mạc phủ Tokugawa. Châu ấn thuyền (朱印船 / Shuinsen) là loại thuyền buồm (thuyền mành) thương mại có trang bị vũ trang và được cấp giấy phép thông hành của chính quyền Mạc phủ đóng dấu đỏ để đi buôn bán với các nước. Với chế độ này, chỉ những tàu nào có mang giấp phép đóng dấu đỏ của Mạc phủ mới được phép đi ra nước ngoài buôn bán. Các tàu nước ngoài muốn đến Nhật Bản để buôn bán cũng cần phải có giấy phép của Mạc phủ Tokugawa. Qua đó, chính quyền Mạc phủ Tokugawa muốn bảo đảm an toàn cho các tàu buôn của Nhật và nước ngoài, tránh khỏi nạn cướp biển, cũng như xác lập uy quyền của mình.
Trong tổng số 356 thuyền của thời kỳ Châu ấn thuyền (1604-1635) có 122 thuyền (34%) được phép đến Việt Nam, trong đó có 47 thuyền đến Đàng Ngoài và 75 thuyền đến Đàng Trong[2]. Số Châu ấn thuyền có thể còn nhiều hơn thực tế bởi nạn thuyền lậu. Theo bức thư Mạc phủ Tokugawa gửi chúa Nguyễn năm 1601 đã xác nhận điều này, trong thư viết “thuyền bè của nước chúng tôi, khi đến đất nước của các ngài, từ nay cần phải có ấn thư này. Cần có chứng cớ cần thiết. Những thuyền bè không có ấn này thì không được cho vào”[3].
Thông qua các lái buôn, chúa Trịnh và chúa Nguyễn đều có thư từ trao đổi với Mạc phủ Tokugawa nhằm tăng cường quan hệ buôn bán giữa hai bên. Năm 1619, chúa Nguyễn Phúc Nguyên còn gả công chúa Ngọc Vạn cho Araki Sutaro và nhận nhà buôn này vào dòng họ quý tộc với cái tên Nguyễn Taro[1]. Trong thời kỳ này, kim ngạch buôn bán Nhận Bản và Đại Việt chiếm 10% quan hệ ngoại thương của Nhật Bản. Người Nhật mang đến Đại Việt bạc, đồng, khí giới và mua về tơ tằm, hương liệu, đường và gốm sứ với tổng lượng hàng hóa trao đổi hai chiều khoảng 860 tấn[2].
Như vậy, cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17, cùng với sự củng cố của chính quyền Mạc phủ, chính sách mở cửa của hai bên đã tạo điều kiện cho mối quan hệ giao lưu kinh tế, văn hóa giữa Nhật Bản và Việt Nam ngày càng phát triển. Cũng theo các tài liệu lưu trữ tại Nhật Bản và tư liệu điều tra khảo sát địa phương, trong thời kỳ Châu ấn thuyền người Nhật Bản đã từng đến làm ăn buôn bán, sinh sống, lập gia đình, sinh hoạt tôn giáo Phật giáo và cả đắm tàu... ở Việt Nam. Những tư liệu về quan lại nhà Lê thư từ qua lại với người Nhật, tàu Nhật Bản đắm ở cửa Hội Thống (Hà Tĩnh) năm 1610, một người phụ nữ trên tàu đó được quan Trần Tịnh nhận làm con nuôi và gả cho Nguyễn Như Thạch làm thứ thất[3]; tư liệu về người Nhật, phố Nhật và mộ người Nhật ở Hội An; tư liệu về sự đóng góp của người Nhật ở chùa Non Nước[4]... là những bằng chứng vật chất minh chứng cho quan hệ giao lưu kinh tế và văn hóa Việt-Nhật thời kỳ này.
Sách Dị quốc vãng lai nhật ký, có ghi một bức thư của Đoan quận công Nguyễn Hoàng gửi Mạc phủ Tokugawa đề ngày 5 tháng 5 năm Hoằng Định thứ 2 (1601). Trong thư, Nguyễn Hoàng thanh minh với Togugawa về sự kiện thuỷ quân của chúa Nguyễn đã tấn công nhầm vào tàu buôn của thương nhân Nhật tên là Bạch Tần Hiển Quý vào năm 1585. Sự kiện này cũng được nhắc đến trong Đại Nam thực lục[5]. Như vậy, tàu buôn Bạch Tần Hiển Quý đã thường xuyên đến Đàng Trong để buôn bán từ trước năm 1585. Sử dụng các nguồn sử liệu Nhật Bản, Noel Peri cũng đã từng chứng minh vào năm 1583 đã có một tàu Nhật Bản đến khu vực Đà Nẵng. Từ năm 1592, thuyền buôn của hai thương nhân hai thương nhân Nhật Bản là Suetsugu và Funamoto đã đến Hội An. Năm 1636, chúa Nguyễn cho phép Hà Lan lập thương điếm ở Hội An[6].
Một số tài liệu thư tịch khác lại cho thấy một nhân vật quan trọng của hoạt động giao thương vùng cửa sông Lam hồi cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17 là Văn Lý hầu Trần Tịnh. Bức thư ngày 13 tháng 5 năm Hoằng Định năm thứ 11 (1611) của Văn Lý hầu nước An Nam về việc kiểm tra tàu Nhật Bản do Giác Tàng Trợ Thứ Hữu Vệ Môn làm chủ. Nội dung bức thư viết:
Quan Đô Đường nước An Nam là Văn Lý hầu vâng mệnh đến xã Hoa Viên, huyện Hưng Nguyên, xứ Nghệ An. Biết được tàu Nhật Bản do Giác Tàng Trợ Thứ Hữu Vệ Môn [いしかわ ごえもん, Ishikawa Goemon] cùng với khách buôn ở nơi đó. Thấy việc buôn bán đã xong nên cho phép lên đường trở về bản quốc. Nhưng việc này phải trình lên làm bằng cứ, để nha môn xem xét sự thực tiện cho việc qua lại buôn bán.
Nay trình lên thư này.
Hoằng Định năm thứ 11, tháng 5 ngày 13 (1611).
Bức thư ngày 25 tháng 2 năm Hoằng Định năm thứ 11 (1611) của Văn Lý hầu nước An Nam gửi thương nhân nước Nhật Bản là Lương Bích Sơn Bá nói về việc tàu Nhật Bản bị đắm tháng 6 năm 1610 được Văn Lý hầu cứu trợ. Nội dung bức thư viết:
Hiệp mưu tá lý công thần, Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, Tổng thái giám, Chưởng (thượng) cung môn thừa chế sự Văn Lý hầu nước An Nam chuyển thư đến ngài thị trưởng thương nhân Nhật Bản là Bích Sơn bá. Khi về bản quốc được biết vào ngày tháng 6 năm trước, việc buôn bán trao đổi hàng hóa tiền tệ với An Nam đã xong xuôi. Nay về đến cửa Chu Nhai ở ngoài biển thì bỗng nhiên bị sóng gió nổi lên đánh cho tan tác, khiến cho một trăm lẻ năm người ở bản xứ phải sống trôi nổi. Ngài Đô đường quan, Quận công, Chưởng giám Văn Lý hầu và Phò mã Quảng thường hầu có ý làm việc công đức, thương xót thương nhân ở viễn quốc, thương tình họ đói khát nên đã lấy gia sản cấp dưỡng nuôi sống toàn bộ số người trên tàu. Rồi lại cho điều họ đến kinh để bái kiến chúa thượng. Chúa thượng rộng đức có lòng từ tâm nên ban sắc chỉ ra lệnh cho bọn họ được trở về bản quốc, ý đó thật là may mắn vậy. Nay các quan Đô đường cùng chấp thuận cho làm thuyền lớn một chiếc, rồi lại ban cho chức tước trở về bản quốc để bày tỏ cái nghĩa tình được hưởng tiếng thơm, để cho toàn vẹn cái ân công đức. Vì vậy nay chuyển thư đến.
Hoằng Định năm thứ 11, tháng 2 ngày 25 (1611).
1. Văn Lý hầu Trần Tịnh là ai?
Các tài liệu văn bia và thư tịch tại địa phương cho biết, Văn Lý hầu tên thật là Trần Tịnh, người thôn, xã Nguyệt Áo, huyện La Sơn, làm quan dưới ba triều vua Anh Tông, Thế Tông, Kính Tông thời Lê Trung Hưng. Năm 1563, ông nhậm chức Chưởng bạ tước Văn Lý tử. Năm 1582, ông được thăng chức Phụng ngự thừa chế. Năm 1594, ông được thăng Đặc tiến Kim tử Vinh Lộc đại phu Tham tri tước Văn Lý bá. Năm 1602, ông được thăng chức Tham chưởng và vinh phong Hiệp mưu tá lý công thần. Năm 1605, ông được thăng làm Tổng Thái giám chưởng cung môn thừa chế tước Văn Lý hầu (theo tài liệu văn bia Văn Lý hầu Trần Công bi (文理侯陳公碑) soạn năm 1607 hiện lưu tại nhà thờ Trần Tịnh). Ông có nhiều đóng góp cho hoạt động phát triển Phật giáo của khu vực sông Lam. Ông từng chủ trì viêc hưng công trùng tu chùa Gia Hưng ở xã Nguyệt Áo huyện La Sơn (theo tài liệu văn bia Trung tu Gia Hưng tự bi (重修嘉興寺碑) khắc năm 1588 hiện lưu tại thôn Vĩnh Côi, xã Trường Lộc, huyện Can Lộc).
Thông qua kết quả điều tra, khai quật thám sát và nghiên cứu của các nhà khảo cổ học Việt Nam trước đây cũng như căn cứ theo các nguồn tài liệu thư tịch cổ, giới khảo cổ học và lịch sử thương mại Việt Nam đã đề cập đến một khu vực được xác định là thương cảng cổ tại địa điểm Hội Thống. Vai trò của Văn Lý hầu Trần Tịnh cũng bước đầu được đề cập đến.
Để tiến sâu hơn một bước nghiên cứu quan hệ Việt Nhật cũng như nghiên cứu kết nối các tài liệu lịch sử về nhân vật Văn Lý hầu trong hoạt động quản lý hệ thống hải thương khu vực cửa sông ven biển Bắc Trung bộ hồi cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội phối hợp cùng Bảo tàng tỉnh Hà Tĩnh và Viện Nghiên cứu Văn hóa Con người thuộc Bộ Văn hóa Giáo dục Nhật Bản tiến hành khai quật thám sát khảo cổ học tại khu vực phía sau nhà thờ Trần Tịnh. Đây cũng chính là việc hiện thực hóa định hướng nghiên cứu hợp tác trong nhiều năm trở lại đây của Bộ môn Khảo cổ học và các nhà khảo cổ học đến từ Nhật Bản về khảo cổ học biển đảo Việt Nam, cũng như về lịch sử quan hệ Việt Nam - Nhật Bản.
Cuộc khai quật được tiến hành trong tháng 8 năm 2018 theo Quyết định 3037/QĐ-BVHTTDL ngày 13/8/2018 của Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch.
2. Kết quả khai quật thám sát
Cuộc khai quật thám sát lần này tại khu vực nhà thờ Trần Tịnh, chúng tôi mở một hố khai quật 2x2m2 theo đúng hướng Bắc, tại vườn nhà ông Bùi Đình Tiến thuộc thôn Lũy, xã Kim Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Tọa độ địa lý hố thám sát TT2018.H1 là 180N29’20” và 1050E41’8”; cách hậu cung nhà thờ Trần Tịnh khoảng 40m về phía đông. Khu đất là vườn trồng màu trong gia đình ông Bùi Đình Tiến, thấp hơn khu vực nhà thờ Trần Tịnh khoảng 50cm.
Hiện vật thu được trong quá trình khai quật, thám sát
Địa tầng:
Địa tầng hố TT.2018.H1 diễn biến đơn giản, gồm các lớp như sau:
- Lớp thứ nhất: ở độ sâu 0-30cm so với mặt bằng, tương đương lớp đào TT.2018.H1.L1 và TT.2018.H1.L2; đất sét pha cát, màu vàng, ướt và dính, tương đương với lớp đất canh tác; có một số mảnh gốm sành và gạch ngói có niên đại thế kỷ 16-18. Trên cùng của lớp này là lớp đất lẫn tro than cải tạo đất trồng, dày khoảng 5-7cm.
- Lớp thứ hai: ở độ sâu 30-40cm so với mặt bằng, tương đương lớp đào TT.2018.H1.L3; đất sét pha cát, màu xám nhạt, ướt và dính, đây là lớp đất trên của tầng văn hóa; di vật gồm có một số mảnh gạch ngói, sành, gốm đất nung, gốm men Việt Nam và Trung Quốc thế kỷ 17-18, một số mảnh gốm men có niên đại thế kỷ 16-17. Trong lớp thứ hai này, có một rãnh đào cắt ngang hố, ký hiệu TT.2018.H1.R1.L4-5, chạy dọc theo chiều bắc nam, đáy hố đào vừa đến sinh thổ. Chiều rộng phía trên khoảng 1,2m, đáy rãnh rộng khoảng 35cm, sâu khoảng 20-35cm.
- Lớp thứ ba: ở độ sâu 40-60cm so với mặt bằng, tương đương lớp đào TT.2018.H1.L4 và TT.2018.H1.L5; đất sét pha cát, màu nâu ngả vàng, ướt và dính, đây là lớp đất dưới của tầng văn hóa; di vật gồm có một số mảnh gạch ngói, sành, gốm đất nung, gốm men Việt Nam và Trung Quốc thế kỷ 17-18, một số mảnh gốm men có niên đại thế kỷ 15-16.
- Sinh thổ là lớp đất sét màu vàng, rắn, mặt bằng sinh thổ tương đối bằng phẳng, chỉ có một hố đất đen gần cạnh AD, hình tròn, đường kính khoảng 30cm và sâu khoảng 20cm, trong có lẫn tro than và mảnh gốm giống như tầng văn hóa.
Tại góc A, chúng tôi đào hố kiểm tra 30x30cm và sâu 30cm, không thấy dấu hiệu của lớp văn hóa sớm hơn.
Di vật:
Di vật trong hố TT.2018.H1 không nhiều, di vật chủ yếu tập trung và ổn định ở độ sâu 30-60cm, thuộc tầng văn hóa của di tích. Các loại hình di vật gồm có mảnh gạch, ngói, sành, gốm đất nung, gốm men Việt Nam và Trung Quốc thế kỷ 17-18, một số mảnh gốm men có niên đại thế kỷ 15-16.
Di vật lớp khai quật thứ nhất: ở độ sâu 0-30cm so với mặt bằng, tương đương lớp đào TT.2018.H1.L1 và TT.2018.H2.L2.
TT.2018.H1.L1
- Gạch thế kỷ 17-18: 6 mảnh, độ dày khoảng 2.4-2.8cm.
- Ngói thế kỷ 17-18: 13 mảnh, độ dày khoảng 1.1-1.2cm, có mảnh dày 1.7cm.
- Gốm đất nung thế kỷ 17-18: 4 mảnh, độ dày khoảng 0.5-0.8cm.
- Sành thế kỷ 17-18: 15 mảnh, độ dày khoảng 0.5-1.7cm.
- Gốm men Việt Nam thế kỷ 17-18: 20 mảnh, độ dày khoảng 0.3-0.7cm.
- Gốm men Trung Quốc thế kỷ 18-19: 11 mảnh nhỏ.
TT.2018.H2.L2
- Ngói thế kỷ 17-18: 6 mảnh, độ dày khoảng 1.2-1.3cm.
- Gốm đất nung thế kỷ 17-18: 5 mảnh nhỏ.
- Sành thế kỷ 17-18: 18 mảnh, độ dày khoảng 0.4-1.1cm.
- Gốm men Việt Nam thế kỷ 17: 10 mảnh, độ dày khoảng 0.4-0.8cm.
- Gốm men Việt Nam thế kỷ 17-18: 10 mảnh, độ dày khoảng 0.3-0.6cm.
- Gốm men Trung Quốc thế kỷ 16-17: 1 mảnh, độ dày khoảng 0.25-0.5cm.
- Gốm men Trung Quốc thế kỷ 17: 2 mảnh, độ dày khoảng 0.3-0.4cm.
- Gốm men Trung Quốc thế kỷ 18-19: 12 mảnh, độ dày khoảng 0.25-0.5cm.
Di vật lớp khai quật thứ hai: ở độ sâu 30-40cm so với mặt bằng, tương đương lớp đào TT.2018.H1.L3
- Gạch thế kỷ 17-18: 10 mảnh, độ dày khoảng 2.4cm.
- Ngói thế kỷ 17-18: 12 mảnh, độ dày khoảng 1.0-1.4cm.
- Gốm đất nung thế kỷ 17-18: 11 mảnh, độ dày khoảng 0.5-0.6cm.
- Sành thế kỷ 17-18: 24 mảnh, độ dày khoảng 0.4-1.0cm.
- Gốm men Việt Nam thế kỷ 17-18: 9 mảnh, độ dày khoảng 0.3-0.5cm. Có 11 mảnh khác vỡ nhỏ, độ dày khoảng 0.25-0.5cm, có thể thuộc nhóm này.
- Gốm men Trung Quốc thế kỷ 18-19: 4 mảnh, độ dày khoảng 0.25-0.5cm.
- Gốm men Trung Quốc không rõ niên đại: 5 mảnh.
- Dao sắt: 1 tiêu bản, dài 35cm, rộng 5cm và dày 1cm.
Di vật trong rãnh TT.2018.H1.R1.L4-5: ở cả hai lớp đào dưới cùng, tương đương lớp đào TT.2018.H1.L4 và TT.2018.H1.L5
TT.2018.H1.R1.L4
- Gạch thế kỷ 17-18: 11 mảnh, độ dày 2.5-2.8cm, có mảnh dày 5.3cm.
- Ngói thế kỷ 17-18: 13 mảnh, độ dày khoảng 1.0-1.2cm.
- Gốm đất nung thế kỷ 17-18: 8 mảnh, độ dày khoảng 0.36-0.57cm.
- Sành thế kỷ 17-18: 12 mảnh, độ dày khoảng 0.5-1.2cm.
- Gốm men Việt Nam thế kỷ 15: 1 mảnh, độ dày khoảng 0.8cm.
- Gốm men Việt Nam thế kỷ 17-18: 7 mảnh, độ dày khoảng 0.25-0.6cm.
- Gốm men Trung Quốc thế kỷ 17-18: 1 mảnh, độ dày khoảng 0.35cm.
TT.2018.H1.R1.L5
- Ngói thế kỷ 17-18: 4 mảnh, độ dày khoảng 1.1-1.2cm.
- Gốm đất nung thế kỷ 17-18: 7 mảnh, độ dày khoảng 0.4-0.6cm.
- Sành thế kỷ 17-18: 4 mảnh, độ dày khoảng 0.4-0.6cm.
- Gốm men Việt Nam thế kỷ 17-18: 4 mảnh, độ dày khoảng 0.23-0.35cm.
- Gốm men Trung Quốc thế kỷ 17: 2 mảnh, độ dày khoảng 0.26-0.54cm.
Di vật lớp khai quật ba: ở độ sâu 40-60cm so với mặt bằng, tương đương lớp đào TT.2018.H1.L4 và TT.2018.H1.L5.
TT.2018.H1.L4
- Ngói thế kỷ 17-18: 11 mảnh, độ dày khoảng 1.3cm.
- Gốm đất nung thế kỷ 17-18: 14 mảnh, độ dày khoảng 0.3-0.55cm.
- Sành thế kỷ 17-18: 14 mảnh, độ dày khoảng 0.4-1.5cm.
- Gốm men Việt Nam thế kỷ 17-18: 5 mảnh, độ dày khoảng 0.3-0.5cm.
TT.2018.H1.L5
- Ngói thế kỷ 17-18: 12 mảnh, độ dày khoảng 1.1-1.2cm.
- Gốm đất nung thế kỷ 17-18: 10 mảnh, độ dày khoảng 0.3-0.55cm.
- Sành thế kỷ 17-18: 16 mảnh, độ dày khoảng 0.37-1.1cm.
- Gốm men Việt Nam thế kỷ 15: 3 mảnh, độ dày khoảng 0.35-0.39cm.
- Gốm men Việt Nam thế kỷ 17: 4 mảnh, độ dày khoảng 0.3-0.5cm.
- Gốm men Trung Quốc thế kỷ 17: 1 mảnh, độ dày khoảng 0.3cm.
3. Nhận thức bước đầu
Từ diễn biến địa tầng và tình hình phát hiện di vật ở hố khai quật thám sát TT.2018.H1 có thể có một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, hố khai quật cho thấy một địa tầng cư trú ổn định của một cộng đồng cư dân sinh sống tại đây có niên đại chủ yếu thế kỷ 16-18.
Thứ hai, mặc dù không tập trung nhiều mảnh vỡ vật liệu kiến trúc và gốm sành như các khu vực thương cảng, nhưng những di vật gốm sứ có niên đại kéo dài từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19, đã cho thấy mức độ tập trung dân cư đáng kể trong làng. Gốm men Việt Nam có nguồn gốc miền Bắc, chủ yếu là gốm men trắng xanh vẽ lam và gốm men ngọc thế kỷ 17-18, trong đó có cả đồ đàn; một số mảnh gốm men ngọc màu xanh táo, đáy tô màu nâu, ve lòng hoặc gốm trong lòng có in hoa cúc dây và cánh sen có niên đại thế kỷ 15. Gốm men Trung Quốc chủ yếu là gốm thế kỷ 17-19 thuộc các lò gốm Phúc Kiến và Quảng Đông, một số mảnh có niên đại sớm hơn, thế kỷ 16-17. Đồ sành bao gồm cả sành miền Bắc và sành miền Trung với tỷ lệ ngang nhau, đây là một đặc trưng của địa điểm gần nhà thờ Trần Tịnh. Các loại vật kiệu kiến trúc như gạch và ngói mũi sen, ngói phẳng trang trí hoa văn... đều là loại hình tiêu biểu của kỹ thuật sản xuất tại chỗ.
Thứ ba, tư liệu có được từ cuộc khai quật lần này dường như phù hợp với thời kỳ Văn Lý hầu Trần Tịnh sinh sống dựng làng lập ấp ở thôn Mật xã Nguyệt Áo huyện La Sơn hồi cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17./.
Chú thích:
[1] Vũ Minh Giang (1991): “Người Nhật, phố Nhật và di tích Nhật Bản ở Hội An”, trong Đô thị cổ Hội An, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 211.
[2] Vũ Minh Giang (1991): “Người Nhật, phố Nhật và di tích Nhật Bản ở Hội An”, bđd, tr. 208.
[3] Phượng Dương Nguyễn tộc thế phả (鳳陽阮族世譜), Nguyễn Huy Giáp soạn năm 1841, Nguyễn Huy Chương sao năm 1942, bản Hán văn, lữu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội, ký hiệu VHv 1354; Anh Tỉnh Hựu Cát (1930): An Nam mậu dịch gia Giác Ốc Thất Lang Binh vệ: Phụ Tùng Bản nhất tộc, Nhật văn, Hạc Thành thông tín xuất bản; Trần Bá Chí (2006): “Thương nghiệp Nghệ An thời xưa”, trong Văn hóa Nghệ An (69+70, tr. 35-37; Trần Bá Chí (2012): “Về buôn bán giữa Nhật Bản với Đại Việt thế kỷ XVI - XVIII (qua một số tài liệu Hán - Nhật Bản)”, trong Văn hóa Nghệ An (220), tr. 14-16; Trần Bá Chí (2015): “Nhật Bản mở phố buôn tại Chợ Tràng - Nghệ An”, trong Văn hóa Nghệ An (307), tr. 37-39; Đặng Hồng Sơn, Nguyễn Văn Anh, Kikuchi Yuriko (2017): “Thương cảng Hội Thống: Tư liệu lịch sử và khảo cổ học”, bđd, tr. 299-322.
[4] Đô thị cổ Hội An, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1991.
[5] Quốc sử quán triều Nguyễn (2005): Đại Nam thực lục, tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr. 32.
[6] Vũ Minh Giang (1991): “Người Nhật, phố Nhật và di tích Nhật Bản ở Hội An”, bđd, tr. 205-206; Bùi Minh Trí (2008): “Gốm Việt Nam trong thương mại biển châu Á thế kỷ XVII”, Khảo cổ học (6), tr. 67-82.
[1] Phan Huy Lê (1999): “Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản thế kỷ XV-XVII trong bối cảnh lịch sử thế giới và khu vực“, Hội thảo quốc tế Quan hệ Việt - Nhật thế kỷ XV-XVII qua giao lưu gốm sứ, Hà Nội.
[2] Kato Eiichi (1991): “Mậu dịch với Đông Dương của các thương điếm thuộc công ty Đông Ấn Hà Lan tại Nhật Bản”, trong Đô thị cổ Hội An, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 220.
[3] Kato Eiichi (1991): “Mậu dịch với Đông Dương của các thương điếm thuộc công ty Đông Ấn Hà Lan tại Nhật Bản”, bđd, tr. 217.