Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Họ Hồ là một dòng họ lớn hình thành từ rất sớm và có truyền thống yêu nước tự lâu đời ở Việt Nam; đã có đóng góp cho dân tộc những danh nhân kiệt xuất như Trạng nguyên Hồ Hưng Dật vốn gốc tộc Việt ở Chiết Giang, miền nam Trung Quốc, đời hậu Hán sang làm Thái thú Diễn Châu; Hồ Quý Ly người lập nên nhà nước Đại Ngu, thi hành nhiều cải cách táo bạo, chính sách hạn điền, hạn nô, cải cách chế độ khoa cử, quan tâm đến giao thông, thủy lợi, đắp đường thiên lý; Hồ Khắc Kiệm đậu Phó bảng, làm Tri châu Quy Hợp. Họ Hồ ở Phương Mỹ nguồn gốc từ xã Quỳnh Đôi – Quỳnh Lưu – Nghệ An, không rõ di cư đến đây từ bao giờ, song đến nay đã có nhiều đời sinh sống và phát triển.
Sử sách không thấy đề cấp đến nhân vật lịch sử Hồ Văn Hoa, nhưng theo một số tư liệu lưu trữ tại nhà thờ Hồ Văn Hoa thì ông là hậu duệ của Trạng nguyên Hồ Hưng Dật (thế kỷ X), cháu đời thứ 9 của Hồ Khắc Kiệm ở Quỳnh Đôi – Quỳnh Lưu – Nghệ An, cháu đời thứ 8 của Hồ Phi Chiêu, đời thứ 7 của Hồ Phi Thiếu, đời thứ 6 của Hồ Phi Giản, đời thư 4 của Hồ Sỹ Anh.
Hồ Văn Hoa sinh ra và lớn lên trên mảnh đất thôn Phương Mỹ - Hương Khê – Hà Tĩnh vào khoảng nửa đầu thế kỷ XVIII. Ông có công lớn trong việc khai hoang phục hóa, mở rộng mảnh đất phì nhiêu bên tả ngạn sông Ngàn Sâu. Thửa nhỏ, khí chất thông minh, lại có sức khỏe, lớn lên, ông được cử làm chỉ huy các đạo quân bảo vệ vùng biên viễn phía tây của tổ quốc (Nay thuộc phần đất Hương Khê, Vũ Quang, Hương Sơn), lập nhiều công tích đẩy lùi bọn tiểu phỉ, bảo vệ bình yên xóm làng.
Lúc bấy giờ, tình hình trong nước gặp nhiều rối ren. Cuộc khởi nghĩa của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ nổ ra. Quân Tây Sơn thường lấy của nhà giàu chia cho người nghèo, do đó nhân dân các nơi theo về rất đông trên quy mô toàn quốc. Lực lượng tham gia không chỉ có nông dân mà còn có cả những sĩ phu như La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, cũng đi theo nghĩa quân. Sử sách kể lại rằng: “Nghe tin Nguyễn Huệ sắp đánh to với quân Thanh, nhân dân Nghệ Tĩnh ai nấy cũng vui mừng nhảy nhót kéo nhau đi tòng quân”.
Nghe theo tiếng gọi của buổi đầu cuộc khởi nghĩa, Hồ Văn Hoa xung phong đi vào Bình Định gia nhập đội quân Tây Sơn. Nhờ được tín nhiệm, ông được phong đứng đầu các tướng lĩnh. Trong chiến dịch thần tốc tiến quân ra Bắc Hà đánh chiếm Thăng Long, tiêu diệt 29 vạn quân Thanh xâm lược năm Kỷ Dậu (1789), vị anh hùng kiệt xuất Quang Trung Nguyễn Huệ cùng với nghĩa quân Tây Sơn dừng lại ở Châu Hoan, Châu Ái. Hồ Văn Hoa giúp Nguyễn Huệ tuyển mộ hàng vạn binh hùng tướng mạnh ở Nghệ Tĩnh, bổ sung vào lực lượng hùng hậu của nghĩa quân Tây Sơn, góp phần vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến chống quân Thanh xâm lược.
Vua Quang Trung mất, Nguyễn Quang Toản là con trưởng, còn nhỏ, mới 10 tuổi, lên ngôi năm Quý Sửu (1793), lấy niên hiệu là Cảnh Thịnh. Do thiếu kinh nghiệm trong điều hành triều chính nên nội bộ lục đục, nghi kỵ lẫn nhau. Trước tình hình đó, Hồ Văn Hoa vẫn là người tỏ ra trung thành, tận tụy bảo vệ vua, góp phần không nhỏ giữ yên triều chính. Sắc phong ngày 15 tháng 8 năm thứ 8 niên hiệu Cảnh Thịnh (1801) có ghi lại sự tín nhiệm và công tích của ông:
Phiên âm:
Thống soái thiếu phó công. Kế nhất khâm phó tả bật đạo trung thanh kỳ trung hồng Hồ Văn Hoa, quán tại Đức Quang phủ, Hương Sơn huyện, Thổ Hoàng xã, Thiên Lão thôn lịch nghệ chinh trận, phả hữu cần lao, cố ứng khâm phó thăng vi Chỉ huy sứ, hồng bà lục, thùy thống kỳ đô đốc, hòa hợp hầu, sai nghiêm chư nhung đắc hầu chuyên khâm hầu. Sắc gia phong biểu tố phương nhược quyết hữu công pháp tại tư khâm phó.
Cảnh Thịnh bát niên, bát nguyệt, ngũ nhật.
Tạm dịch:
Thống soái thiếu phó công. Xét các quan lại, nhất khâm phó tả bật đạo trung thành kỳ, trung hồng Hồ Văn Hoa, trú quán tại thôn Thiên Lão, xã Thổ Hoàng, huyện Hương Sơn, phủ Đức Quang đã qua trận nghệ chinh, có chút công lao, vì vậy ứng vào đó mà thăng chức Chỉ huy sứ hông bá lục tùy thống kỳ đô đốc hòa hợp hầu sau nghiêm nhung đắc hầu chuyên khâm hầu. Sắc gia phong nếu không làm tròn có công pháp. Kính thay!
Ngày 05 tháng 8 năm thứ 8 niên hiệu Cảnh Thịnh (1801)
Năm Canh Thân 1800, Nguyễn Ánh âm mưu trả thù nhà Tây Sơn, vượt biển đánh thành Quy Nhơn. Năm Tân Dậu (1801), Nguyễn Ánh đánh Phú Xuân. Ngày 16 tháng 6 năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Ánh tập trung lực lượng đánh chiếm kinh đô Thăng Long, bắt được vua Cảnh Thịnh. Mùa đông năm 1802, Nguyễn Ánh về Phú Xuân cáo tế miếu, trả thù quân Tây Sơn cực kỳ hèn hạ và tàn bạo. Quang Toản cùng toàn gia và một số tướng lĩnh Tây Sơn bị hành hình trong đó có Hồ Văn Hoa.
Sau khi Hồ Văn Hoa mất, nhân dân quê hương nhớ tới ông, đưa ông về tế ở thái miếu Thổ Hoàng – Phương Mỹ.
Đời vua Thành Thái năm thứ 6 (1895) mới cho xây đền thờ ông tại xã Phương Mỹ. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đền thờ sụp đỗ, chỉ còn lại hai cột nanh và bốn đôi câu đối mờ chữ. Từ đây, bà con trong dòng họ rước ông về thờ tại nhà thờ họ Hồ Đức trong xã.