Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Lịch sử Hà Tĩnh giai đoạn thời tiền Sử không thể không nhắc đến loại hình hiện vật thô sơ nhưng có vai trò quan trọng trong đời sống con người: cổ vật đá. Đồ đá phổ biến trong tất cả các địa điểm khảo cổ học thời tiền sử trên địa bàn Hà Tĩnh từ giai đoạn trung kỳ đến hậu kỳ đá mới và sơ kỳ kim khí tạo nên diện mạo rõ nét cho giai đoạn này.
Cổ vật đá thời tiền sử ở Hà Tĩnh
1. Loại hình đồ đá
1.1. Đồ đá ghè đẽo
Đồ đá ghè đẽo tiêu biểu cho giai đoạn đá mới sớm tại Hà Tĩnh. Những di vật này chỉ có dấu vết ghè đẽo, tạo công cụ hình múi bưởi, mũi nhọn, rìu ngắn và những mảnh tước không định hình.
Cuộc thám sát Cồn Lôi Mốt năm 1974 đã tìm được một công cụ chặt thô và một mảnh tước có dấu ghè to và thô. Công cụ chặt, ghè đẽo theo cách thường thấy ở đồ đá cũ, có thể coi là Chopping-tool đẹp, dài 12,2cm rộng 8,7cm. Mảnh tước thì đúng là có dấu ghè to và thô điển hình, dài gần 8,5cm, rộng gần 7cm, lớp patin cũng rất dày, trông giống mảnh tước Núi Đọ.
Cuộc khai quật tại Phái Nam năm 1978 thu được 59 công cụ ghè đẽo và 64 mảnh tước các loại. Công cụ ghè đẽo gồm các loại hình công cụ chặt dạng hạch đá, công cụ chặt dạng rìu tay (chopping tool) công cụ hình mai rùa, hình cầu hay công cụ hạch không có hình dạng xác định. Công cụ mảnh tước gồm các loại hình công cụ chặt-nạo có dáng hình bầu dục, hình bán nguyệt, hình tam giác và công cụ không định hình. Khi so sánh với các địa điểm văn hóa Quỳnh Văn tại Nghệ An, Bùi Vinh cho rằng Phái Nam là một địa điểm thuộc văn hóa này, phản ánh sự mở rộng địa bàn cư trú của người Quỳnh Văn về phía nam. Điều này cũng đặt cơ sở cho việc phát triển văn hóa Thạch Lạc giai đoạn kế tiếp, phát triển rực rỡ trên đất Hà Tĩnh.
1.2. Đồ đá mài
Đồ đá mài bắt đầu xuất hiện và phổ biến ở giai đoạn hậu kỳ đá mới - sơ kỳ kim khí, phát triển nở rộ trong các di tích thuộc văn hóa Thạch Lạc có địa bàn phân bố chính trên đất Hà Tĩnh. Kỹ thuật mài xuất hiện đầu tiên trên các loại hình công cụ lao động như rìu, bôn, sau đó phát triển sang các loại hình vũ khí và đồ trang sức.
Công cụ lao động: Bộ công cụ lao động của hủ nhân văn hóa Thạch Lạc bao gồm rìu bôn, cuốc, dao/cưa, chì lưới và bàn đập vỏ cây trong đó rìu bôn có số lượng rất lớn và chiếm tuyệt đại đa số di vật. Địa điểm Thạch Lâm (Phái Đông hay Rú Trò) khai quật năm 1962 thu được 7 rìu có vai, 5 rìu tứ giác, năm 1976 thu được 8 rìu tứ giác, 2 rìu có vai và một số mảnh rìu bôn vỡ. Địa điểm Thạch Đài thám sát và khảo sát năm 1964 thu được 8 chiếc rìu bôn và 1 dao đá. Hiện vật sưu tầm ở Thạch Hà trong kho Nghệ Tĩnh trước năm 1976 gồm 1 cuốc, 8 phác vật rìu, 65 rìu có vai, 30 rìu tứ giác và một số mảnh rìu bôn vỡ. Rúi Nài hố thám sát: 3 rìu, thu nhặt 37 chiếc rìu tứ giác năm 1976 và 2 rìu bôn tứ giác, 1 rìu bôn có vai năm 2013. Địa điểm Thạch Lạc đã được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa quốc gia, nơi được khảo sát và khai quật nhiều nhất, thu được 87 rìu bôn tứ giác, 176 rìu có vai, 5 bôn, 3 cuốc với nhiều kiểu dáng khác nhau. Đặc biệt tại đây phát hiện 2 chì lưới và 1 bàn dập vỏ cây - những hiện vật cho thấy sự phát triển đa dạng ngành nghề của cư dân Hà Tĩnh từ thời tiền sử. Ngoài ra rải rác trong các di chỉ còn thấy những mảnh dao/cưa đá dùng cắt xẻ thịt hoặc chế tạo đồ gia dụng. Đặc trưng của đồ đá Hà Tĩnh thời kỳ này là công cụ lao động ít được mài hết vết ghè, các góc vai tạo bằng vài nhát ghè nhỏ và không hoặc ít mài, ít dùng kỹ thuật cưa, thiên về ghè đẽo-mài tạo mặt cắt ngang hình e líp và gần e líp. Trên nhiều hiện vật, đốc công cụ không được mài cắt, rìa cạnh và đốc còn nguyên vết ghè, bề mặt mài sơ để lại nhiều vết ghè đẽo sâu.
Ngoài công cụ lao động, vũ khí dùng trong săn bắn và tự vệ như lao, giáo, mũi nhọn cũng được chú trọng phát triển. Di chỉ Thạch Lạc phát hiện 4 mũi lao, 2 mũi giáo và 2 mũi nhọn đá được chế tác tinh xảo, sắc bén. Những mũi lao, mũi nhọn này thường được tháp vào cán, dùng săn bắn, tấn công con mồi từ khoảng cách xa. Trong trường hợp khẩn cấp, chúng cũng được dùng như những thứ vũ khí lợi hại để tấn công kẻ thù và bảo vệ cộng đồng.
Đá còn được chế tạo đồ trang sức tinh xảo là đẹp cho con người. Những hạt chuỗi hình ống chế tác bằng đá Nephrite, vật hình khánh, đá ghè tròn tại Thạch Lạc hay một số hiện vật không rõ chức năng ở địa điểm Thạch Lâm góp phần làm phong phú thêm bộ sưu tập cổ vật đá Hà Tĩnh.
1.3. Đá có vết sử dụng, không có vết chế tác
Nhiều cổ vật đá tuy không có vết chế tác nhưng có vai trò quan trọng trong đời sống cư dân cổ. Họ sử dụng những viên đá tự nhiên có hình dáng, chất liệu phù hợp để phục vụ lao động sản xuất. Quan trọng và phổ biến nhất là đá mài, ngoài ra còn có hòn ghè/chày nghiền, bàn đập/hòn kê và một số đá cuội dùng trong sản xuất đồ gốm.
Đá mài là loại hiện vật chiếm tỉ lệ lớn nhất trong bộ sưu tập hiện vật đá, đồng thời phong phú về loại hình. Bàn mài trong các địa điểm văn hóa Thạch Lạc được chuyên biệt hoá, đồng thời kết hợp nhiều loại hình trong một hiện vật, tạo nên tính đa năng của công cụ. Các loại hình bàn mài gồm: bàn mài lõm lòng mo, bàn mài rãnh, bàn mài phẳng, bàn mài vũm, bàn mài trong và bàn mài kết hợp. Loại kết hợp thường là mài lõm kết hợp với mài rãnh hoặc mài bằng. Ngoài ra, chất liệu bàn mài cũng thể hiện sự chuyên biệt của quá trình lao động. Có bàn mài loại hạt thô để mài phá và loại mịn để tu chỉnh, sửa sang, loại chất liệu sét bột kết để mài bóng.
Hòn ghè/chày nghiền và bàn đập/ hòn kê cũng rất phổ biến trong các di chỉ khảo cổ. Chúng có thể được sử dụng làm dụng cụ ghè đập quả hạch, nghiền bột từ các loại củ quả hay hạt, đôi khi được sử dụng làm hòn kê nấu bếp. Ngoài ra một số viên cuội có vết mòn nhẵn cũng đã được sử dụng trong kỹ thuật chuốt gốm, dùng làm bàn đập/ hòn kê trong quá trình tạo hình đồ gốm Tiền sử trước khi kỹ thuật bàn xoay xuất hiện.
2. Chất liệu và kỹ thuật
2.1. Chất liệu
Cổ vật đá tiền sử Hà Tĩnh khá thống nhất về mặt chất liệu. Phần lớn các hiện vật đá được tìm thấy có chất liệu sa thạch và phiến thạch, một số công cụ được làm từ chất liệu basalt, cuội nguyên có nguồn gốc sa thạch hay vụn kết. Đặc biệt chỉ có 4 hiện vật được làm từ đá lửa, loại chất liệu hiếm và quý ở miền Trung nói riêng và trên toàn lãnh thổ Việt Nam nói chung.
Dựa trên tính chất của từng loại chất liệu đá mà cư dân cư trú trên vùng đất Hà Tĩnh cổ xưa sử dụng chúng vào những mục đích khác nhau. Sa thạch được dùng làm bàn mài, phiến thạch hầu như chỉ dùng làm rìu/bôn, mũi nhọn, đá nguồn gốc basalt, trầm tích và đá lửa làm rìu bôn... Các viên cuội vụn kết thạch anh thường được tận dụng làm chày nghiền, hòn ghè, bàn xoa/miết gốm... Nhìn chung, con người giai đoạn này chủ yếu chế tác công cụ từ những loại đá có chất liệu mềm, bởi vậy công cụ dễ bị gãy vỡ và rất ít hiện vật còn nguyên vẹn.
2.2. Kỹ thuật chế tác
Ghè đẽo tạo dáng và mài là tổ hợp kỹ thuật chủ đạo trong chế tác công cụ đá thời tiền Sử Hà Tĩnh. Người xưa không áp dụng phổ biến kỹ thuật khác như cưa, khoan, đục… trong chế tác công cụ. Phong cách chế tác thể hiện sự tiết kiệm công sức tối đa. Họ dùng khá nhiều cuội nguyên, lợi dụng hình dáng tự nhiên của viên cuội, ghè đẽo hoặc vài nhát căn bản tạo dáng sau đó mài toàn thân, nhiều hiện vật còn vỏ cuội. Kỹ thuật cưa chỉ thấy trên vai và hai bên rìa cạnh loại hình rìu bôn, các loại khác hầu hết chỉ đẽo gọt và mài.
Cư dân Hà Tĩnh xưa không quen xử lý các loại đá có độ cứng cao. Có 3 chiếc rìu và 1 mảnh công cụ đá lửa, đều không được mài. Những hiện vật như hạt chuỗi hình ống, bàn đập vỏ cây có lẽ là sản phẩm của quá trình trao đổi vật phẩm hoàn chỉnh.
Công xưởng đá Rú Dầu là nơi cung cấp hầu hết nguyên liệu, phác vật cho cư dân cư trú trên vùng đất Hà Tĩnh thời kỳ này. Cuộc khảo sát năm 1976 tại di chỉ thu được thu được 80 phác vật rìu và nhiều mảnh đá nguyên liệu, mảnh tước. Các nhà nghiên cứu băn khoăn về mối liên hệ trực tiếp giữa công xưởng Rú Dầu với những công cụ mài chân chính ở các di chỉ. Tuy nhiên cuộc khảo sát năm 2013 thu được 1 rìu mài có vai đã giải đáp được mối băn khoăn này. Khảo sát của Nguyễn Trung Chiến về những phác vật và hiện vật đá trong các di chỉ văn hóa Thạch Lạc, so sánh với công xưởng Rú Dầu cho thấy cư dân Tiền sử Hà Tĩnh hầu hết nhập nguyên liệu từ công xưởng Rú Dầu. Những phác vật rìu bôn được sơ chế tại đây đưa tới những khu cư trú. Sản phẩm cuối cùng sẽ được tạo ra khi cần thiết, tránh lãnh phí nguyên liệu và phù hợp nhu cầu thực tế sử dụng.
3. Ý nghĩa của đồ đá trong đời sống con người Hà Tĩnh thời kỳ Tiền sử
Đặc trưng đồ đá thời tiền sử Hà Tĩnh thể hiện ở sự phát triển phong phú về loại hình nhưng suy thoái về kỹ thuật. Ở giai đoạn sớm chỉ có dụng cụ không qua chế tác và đồ đá ghè đẽo: công cụ mũi nhọn, công cụ hình múi bưởi, mảnh tước, bàn nghiền, chày nghiền, hòn ghè/hòn kê.
Công cụ đá giai đoạn hậu kỳ đá mới- sơ kỳ kim khí phát triển theo khuynh hướng ngày càng đa dạng. Rìu bôn vai xuôi bắt đầu xuất hiện và phát triển. Những chiếc rìu đầu tiên là loại hình có vai, được mài bóng toàn thân, không còn vết ghè; kỹ thuật chế tác quy chuẩn với những nhát cưa tạo góc cạnh (đặc biệt là góc vai) rõ ràng, mặt ngang hình tang trống hoặc hình chữ nhật. Ở giai đoạn muộn, rìu bôn tứ giác bắt đầu xuất hiện, kèm theo đó là sự phát triển nhảy vọt về mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội.
Ngoài cuội sông, biển để làm dụng cụ hỗ trợ như chày nghiền, bàn mài… những cư dân này không có sẵn nguồn nguyên liệu chế tác công cụ lao động. Dấu vết mòn sử dụng tiến sát đốc và rìa lưỡi ghè lại ít khi được mài cẩn thận trên các công cụ lao động cho thấy kỹ năng chế tác đá không tinh xảo của cư dân cổ. Họ ít chú ý đến tính thẩm mỹ, mức độ quy chuẩn trên công cụ mà chỉ thuần túy mang tính thực dụng. Công cụ đá hầu hết được chế tạo bằng kỹ thuật ghè đẽo và mài, ít cưa, khoan, không tu chỉnh ép. Đặc điểm này hoàn toàn khác biệt với các di tích Bàu Tró, nơi kỹ nghệ thanh xuân hóa và tu chỉnh nhỏ được sử dụng phổ biến và là nhu cầu cấp thiết trong chế tác, sử dụng công cụ. Bộ công cụ hoàn toàn vắng bóng những loại hình đặc thù của nghề chế tác đá như đục, đột, mũi khoan… Bàn mài xuất hiện nhiều và đa dạng có lẽ chủ yếu để mài lại lưỡi công cụ cho sắc bén.
Bộ công cụ đá mang lại năng suất lao động và khả năng tự vệ hiệu quả cho con người. Người Hà Tĩnh xưa bước đầu đã có sự chuyên môn hóa nhất định trong việc chế tác các công cụ đá với những chức năng khác nhau nhằm đưa đến hiệu quả lao động cao nhất. Họ lựa chọn, phân loại nguyên liệu cho từng mục đích sử dụng: sa thạch dùng làm bàn mài, phiến thạch làm dao hay lao, mũi nhọn, rìu bôn; đá basalt làm rìu, bôn cuốc… Sự am hiểu từng loại chất liệu đá cho phép họ sáng tạo ra công cụ phù hợp, thích ứng tốt với yêu cầu công việc.
Mỗi loại công cụ đảm nhiệm chức năng riêng biệt hoặc tạo nên phức hợp đa năng. Rìu bôn, cuốc đều có thể dùng chặt cây, đục đẽo, đóng thuyền hay trở thành vũ khí tự vệ, làm dao chặt, chia thức ăn. Loại mũi nhọn đá hình tam giác rất gần gũi với các văn hóa đá mới hải đảo. Có lẽ cư dân Hà Tĩnh cổ cùng chia sẻ những truyền thống kỹ thuật với nhóm cư dân này.
Cư dân Hà Tĩnh thời tiền sử chủ yếu sống dựa vào kinh tế khai thác dựa trên nguồn lợi biển, rừng. Họ phát triển mạnh mẽ hai ngành nghề kinh tế xương sống là săn bắn và đánh cá. Bộ công cụ, dụng cụ lao động hợp lý mang lại hiệu quả đánh bắt và săn bắn cao, thể hiện trên khối lượng khổng lồ tàn tích xương cá, xương thú còn lại tại hầu hết các di chỉ khảo cổ học thời kỳ này. Kinh tế khai thác đem lại cho họ đời sống khá sung túc với nguồn thức ăn dự trữ dồi dào, có thể đem trao đổi lấy những sản phẩm thiết yếu hoặc sản phẩm làm đẹp khác như phác vật rìu bôn và đá nguyên liệu, bàn đập vỏ cây hay hạt chuỗi hình ống. Nhờ ổn định kinh tế, đời sống tinh thần của họ cũng phát triển phong phú.
Tài liệu tham khảo
Hà Văn Tấn và Trương Quang Liễn (1976), Cồn Lôi Mốt (Hà Tĩnh), Khảo cổ học (số 17), tr. 53-54 Bùi Vinh (1978), Khai quật địa điểm Phái Nam (Nghệ Tĩnh), Tư liệu Viện Khảo cổ học. Bùi Vinh (1979), Những vấn đề văn hóa Quỳnh Văn đặt ra sau khi khai quật Phái Nam (Nghệ Tĩnh), Khảo cổ học (số 1), tr. 21-28. Hà Văn Tấn (1976), Khai quật di chỉ Bãi Phôi Phối (Nghệ An), NPHMV KCH năm 1976, Nxb KHXH, Hà Nội, tr.119. Nguyễn Tôn Kiểm, Hà Nguyên Điểm (1963), Báo cáo sơ bộ cuộc thám sát địa điểm Thạch Đài, Tư liệu thư viện Viện KCH. Nguyễn Khắc Sử, Nguyễn Kim Dung (1976), Điền dã khảo cổ học Hà Tĩnh, Tư liệu Viện Khảo cổ học. Nguyễn Thị Thúy (2016), Di chỉ Thạch Lạc trong bối cảnh các di tích cồn sò điệp ven biển Hà Tĩnh, Luận văn Thạc sĩ, Tư liệu Viện Khảo cổ học. Hà Văn Tấn (1976), Xưởng làm đồ đá Núi Dầu - Bãi Phôi Phối, Khảo cổ học (số 17), tr. 51-53. Nguyễn Thị Thúy (2014), Điều tra nhóm di tích thuộc văn hóa Thạch Lạc ở Nghệ An - Hà Tĩnh, Tư liệu Thư viện Viện Khảo cổ học. Nguyễn Trung Chiến (1989), Vài tư liệu về mối tương quan giữa đồ đá công xưởng Rú Dầu và đồ đá văn hoá Thạch Lạc, NPHMV KCH năm 1989, Nxb KHXH, Hà Nội, tr. 51. Báo cáo khai quật di chỉ khảo cổ Thạch Lạc – Thạch Hà – Hà Tĩnh: năm 2002; 2004; 2005; 2014; 2015.