Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Tiền có lịch sử hình thành từ lâu đời khi trình độ sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định. Tiền được hình thành như một vật đổi đa năng nhằm đơn giản hóa thương mại. Tại Hà Tĩnh cũng như ở Việt Nam, thời kỳ Bắc thuộc, chưa có tiền Việt Nam và người ta chủ yếu sử dụng tiền phương Bắc trong hoạt động kinh tế, trao đổi, buôn bán hàng hóa. Đến thời nhà Đinh, tiền kim loại Việt Nam lần đầu tiên xuất hiện với đồng Thái Bình hưng bảo được đúc năm 970. Như vậy, Đinh Bộ Lĩnh đã đặt nền móng để các đời vua triều đại về sau duy trì phát triển truyền thống đúc tiền dưới thời phong kiến độc lập tự chủ của Việt Nam.
Ở Hà Tĩnh, từ năm 2000 đến nay phát hiện được ít nhất là 20 bộ sưu tập tiền cổ nằm rộng khắp trên hầu hết các địa phương trong tỉnh như ở các xã Hương Xuân, Lộc Yên, Hương Thủy (Hương Khê), Ân Phú, Hương Quang, Đức Lĩnh (Vũ Quang), Việt Xuyên, Thạch Tân (Thạch Hà), Kỳ Ninh, Kỳ Tây (Kỳ Anh), Cẩm Yên, Cẩm Hòa, Cẩm Duệ (Cẩm Xuyên), Vĩnh Lộc, Thiên Lộc (Can Lộc), Thạch Bình, Thạch Hạ (TP. Hà Tĩnh). Chủ yếu các bộ sưu tập tiền được phát hiện thời Hậu Lê, đậm đặc nhất là thời Lê Trung Hưng. Chỉ một bộ sưu tập tiền phát hiện ở xã Mai Phụ (Lộc Hà) là được chôn vào cuối thời Nguyễn.
Trong các bộ sưu tập tiền phát hiện tại Hà Tĩnh, tiền Việt Nam có niên đại sớm nhất là đồng Thiên Phúc trấn bảo của đời vua Lê Hoàn, Tiền Lê được đúc vào mùa xuân năm 980, tứcngay sau đồng Thái Bình hưng bảo của Đinh Bộ Lĩnh. Đồng Thiên Phúc trấn bảo mặt sau có chữ “Lê”, họ vua. Tiền Việt Nam có niên đại muộn nhất là đồng Bảo Đại thông bảo của vua Bảo Đại, vị vua cuối cùng của chế độ phong kiến trung ương tập quyền của Việt Nam, nằm trong bộ sưu tập tiền phát hiện tại xã Mai Phụ (Lộc Hà). Thư pháp trên những đồng tiền cổ Việt Nam chủ yếu ở thể chân thư, rõ nét dễ đọc. Ngoài ra còn thời Lê Sơ (1428-1527)phát hiện nhiều trong bộ sưu tập tiền ở Vĩnh Lộc (Can Lộc) bao gồm có đồng Thuận Thiên thông bảo của Lê Thái Tổ, Thiệu Bình thông bảo của vua Lê Thái Tông, Đại Bảo thông bảo là đồng tiền cực hiếm trên thị trường tiền cổ, của vua Lê Thái Tông,Thái Hòa thông bảo của vua Lê Nhân Tông, Diên Ninh thông bảo của vua Lê Nhân Tông, Thiên Hưng thông bảo của vua Lê Nghi Dân, Gia Thái thông bảo của vua Lê Thế Tông, Quang Thuận thông bảo, Hồng Đức của vua Lê Thánh Tông, Cảnh Thống thông bảo của vua Lê Hiến Tông. Tiền niên hiệu Cảnh Hưng, vua Lê Hiển Tông (1740-1786) đúc nhiều nhất, chiếm số lượng áp đảo, phát hiện được nhiều nơi trong các bộ sưu tập tiền ở Hà Tĩnh, sau đó mới đến đồng Chiêu thống thông bảo cua Lê Mẫn Đế đúc năm 1787-1788.Thái Bình thông bảo của chúa Nguyễn. Tiền thời Tây Sơn có Quang Trung Thông bảo của Nguyễn Huệ và Thái Đức thông bảo của Nguyễn Nhạc. Tiền thời Nguyễn (1802 – 1945) được phát hiện, có đồng Minh Mệnh thông bảo, Thiệu Trị thông bảo, Tự Đức thông bảo, Thành Thái thông bảo, Bảo Đại thông bảo.
Tiền Trung Quốc ở Hà Tĩnh rất phong phú bao gồm nhiều đời vua, triều đại khác nhau từ tiền thời Đường đến thời Bắc Tống, Nam Tống, thời nhà Kim, nhà Minh, nhà Thanh. Tiền thời Bắc Tống chiếm vị trí áp đảo, đại đa số trong các bộ sưu tập tiền phá hiện tại Hà Tĩnh. Thư pháp trên những đồng tiền Trung Quốc rất đa dạng gồm triện thư,lệ thư,hành thư, chân thư,thảo thư.
Tiền Nhật Bản được phát hiện trong nhiều bộ sưu tập tiền ở Hà Tĩnh như bộ sưu tập ở xã Ân Phú – Vũ Quang, xã Kỳ Tây – Kỳ Anh, xã Cẩm Duệ - Cẩm Xuyên. Đó là những đồng tiền Nguyên Phong thông bảo và Khoan Vĩnh thông bảo niên đại thế kỷ 16-17.
Việc phát hiện nhiều tiền cổ trên các địa bàn trong tỉnh cho phép chúng ta tìm hiểu nhiều vấn đề về lịch sử, văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị, quân ở tỉnh Hà Tĩnh nói riêng và Việt Nam nói chung trong suốt tiến trình lịch sử, đặc biệt là thời kỳ độc lập tự chủ dưới thời phong kiến của Việt Nam tồn tại hàng nghìn năm. Tiền cổ ở Hà Tĩnh mang đến nhiều thông điệp, dấu ấn của người xưa để lại.
Trước hết, tiền cổ phản ánh tư tưởng, tư duy triết học, vũ trụ quan của người Á Đông. Theo đó, tiền hình tròn tượng trưng cho trời, giữa có lỗ vuông tượng trưng cho đất. Trời đất giao hòa, âm dương đối đãi sẽ cân bằng và phát triển.
Tiếp đến, tiền Việt Nam ra đời góp phần khẳng định nền độc lập, tự chủ của dân tộc Việt Nam trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hóa.Tiền phản ánh quá trình thịnh suy, lịch sử của từng thời kỳ. Chẳng hạn, tiền thời Lê Sơ rất đẹp, dày, chất liệu đồng tốt, nét chữ rõ ràng đậm nét thể hiện sức mạnh của triều đại, một triều đại phát triển rực rỡ của chế độ phong kiến trung ương tập quyền, một quốc gia Đại Việt hùng cường, có sự phát triển mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực. Hay đồng Thái Đức thông bảo, Quang Trung thông bảo tiền nhỏ, mỏng thể hiện một triều đại non trẻ mới ra đời, lại trong giai đoạn chiến tranh thống nhất giang sơn, chống giặc ngoại xâm phương Bắc. Trong giai đoạn đó tiền đúc không được đẹp là điều dễ hiểu.
Thứ nữa, tiền tệ phản ánh ngôn ngữ, thư pháp của từng thời kỳ. Trên mỗi đồng tiền có ghi niên hiệu của từng đời vua, loại tiền được lưu thông, nơi sản xuất tiền, hoa văn trên những đồng tiền, giá trị đồng tiền…Thư pháp trên những đồng tiền cũng cho ta biết quá trình phát triển, dấu ấn ngôn ngữ của từng thời kỳ. Qua nghiên cứu thư pháp, tự dạng chúng ta có thể biệt được tiền của nước nào được lưu thông tại Hà Tĩnh thời bấy giờ. Tiền thư pháp triện thư, lệ thư, hành thư, thảo thư giúp chúng ta có thể khẳng định tiền đó là của Trung Quốc. Tiền Nguyên Phong thông bảo của Nhật Bản sẽ là tiền có thư pháp chân thư, chữ “Nguyên” bốn nét, bộ “Bối” của chữ bảo tự dạng hình vuông.
Sau đó, tiền Cảnh Hưng số lượng lớn về chủng loại và số lượng ở Hà Tĩnh phản ánh việc vua Lê Hiển Tông, thời Lê Trung Hưng tại vị trong thời gian dài từ 1740-1786, năm nào ông cũng cho đúc đến mức lạm phát. Cũng có ý kiến cho rằng trong thời kỳ này, không chỉ nhà nước trung ương đúc tiền mà địa phương cũng tham gia đúc tiền.Các chữ Hán trên tiền Cảnh Hưng cũng mang những nét văn hóa, những dụng ý của các bậc tiền nhân. Chẳng hạn, tiền Cảnh Hưng có chữ “đại bảo” nghĩa là tiền có giá trị lớn; có “vĩnh bảo” là tiền lưu thông mãi mãi; có chữ “chí bảo” là tiền cao quý nhất; có chữ “cự bảo” là tiền có giá trị to; có chữ “trọng bảo” nghĩa là tiền trọng yếu; có chữ“thông bảo” là tiền lưu hành thông dụng.
Tiếp theo, tiền tệ phản ánh giao thương, trao đổi tiền tệ, hàng hóa trong nước và ngoại quốc, đặc biệt là Trung Quốc và Nhật Bản. Thời bấy giờ, tiền tệ của các quốc gia này được sử dụng chung tại tại Hà Tĩnh và Việt Nam. Việc tiền Trung Quốc thời Bắc Tống chiếm phần đa số, thời kỳ này tại Việt Nam lại cho đúc ít tiền của mình được giải thích là tiền thời Bắc Tống đẹp, lại nhiều nên, nhà nước ta lấy đó để lưu thông chứ không cần đúc nữa bởi sợ tốn kém. Cũng có thể giải thích, trong hơn 20 năm (1407 – 1428) quân Minh sang xâm lược, đô hộ nước ta, chúng đã có dã tâm tìm mọi cách đồng hóa, tàn phá văn hóa của Đại Việt, trong đó có những đồng tiền nên tiền triều đại thời Lý, Trần trước đó chưa thấy xuất hiện trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
Ngoài ra, việc phát hiện các đồng tiền Nhật Bản có niên đại thế kỷ 16-17 trùng khớp với thời kỳ cởi mở về về ngoại thương ở Đàng Trong và Đàng Ngoài của quốc gia Đại Việt. Thời kỳ này, các cửa biển của các dòng sông lớn ở Hà Tĩnh như cửa Hội Thống, cửa Sót, cửa Nhượng, cửa Khẩu là nơi hoạt động thương mại khá sôi nổi. Hội Thống là cửa biển của dòng sông Lam. Theo nhiều thư tịch cổ đáng tin cậy cho thấy, cửa biển này là nơi thuyền bè ngoại quốc trong đó có Nhật Bản vào ra buôn bán, trao đổi tiền tệ, hàng hóa, hình thành nên phố cổ Phù Thạch (Đức Vĩnh – Đức Thọ) và các khu phố buôn bán dọc bờ sông Lam. Hiện nay, các phố này đã trở thành phế tích. Việc xuất hiện tiền Nhật Bản góp phần khẳng định quan hệ bang giao giữa Việt Nam và Nhật Bản ở Hà Tĩnh.
Thêm nữa, tiền cổ phản ánh lịch sử ổn định chính trị, xã hội. Việc phát hiện được nhiều bộ sưu tập tiền cổở xã Ân Phú (Vũ Quang), ở xã Hương Xuân (Hương Khê), ở xã Kỳ Tây (Kỳ Anh), ở xã Việt Xuyên (Thạch Hà)có niên đại chôn vào thế kỷ 17-18 ở các địa phương Hà Tĩnh cũng phản ảnh một thời kỳ lịch sử biến động. Đây là thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh, nội chiến tương tàn. Lúc bấy giờ, Hà Tĩnh là một trong những chiến trường ác liệt của cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn. Nhân dân phải bỏ ruộng vườn phiêu tán khắp nơi. Các của cải được cất dấu tránh bị mất mát. Nhiều gia đình có tiền bạc để trong các hũ sành,chôn dấu trong lòng đất hy vọng một ngày trở về lấy lại. Tuy nhiên, vì một lý do nào đó số tiền này đã bị lãng quên. Ngày nay, trong lúc lao động sản xuất người dân phát hiện và được Bảo tàng tỉnh Hà Tĩnh sưu tầm, lưu giữ và nghiên cứu.
Còn nữa, tiền cổ góp phần xác định chính xác niên đại của các di chỉ khảo cổ ở Hà Tĩnh. Đối với các nhà nghiên cứu lịch sử, đặc biệt là các nhà khảo cổ khi khai quật một di tích khảo cổ nào đó mà việc phát hiện được tiền cổ thì lấy đó là một tiêu chí để xác định niên đại của di tích đó. Bởi trên đó đúc chữ Hán ghi niên hiệu đời vua đúc tiền từ đó có thể tra cứu niên đại của đồng tiền đó. Chẳng hạn, các nhà khảo cổ đã khai quật di tích mộ táng Đồng Đẫm, dưới chân núi Hồng Lĩnh (xã Thiên Lộc – Can Lộc)năm 2007 đã phát hiện những đồng tiền và dựa một phần vào đó để xác định niên đại thời Trần của ngôi mộ.
Cuối cùng, các đặc điểm hình dáng chất liệu, ngôn ngữ trên các đồng tiền cho thấy sự tương đồng văn hóa, hay sự giao thoa tiếp biến văn hóa, truyền thống tiền tệ giữa các quốc gia trong khu vực, đặc biệt là Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản. Các đồng tiền của ba quốc gia này đều có thể làm phương tiện cho hoạt động thương mại ở Hà Tĩnh và Việt Nam.Việc xuất hiện tiền cổở Hà Tĩnh của các nước lân bang trong khu vực cho thấy quá trình quan hệ thương mại, ngoại thương ở Hà Tĩnh phát triển trong lịch sử./.