Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng

Miếu Trửa thờ Hoàng Tá Thốn, xã Thạch Khê, tỉnh Hà Tĩnh
Hà Tĩnh với điều kiện tự nhiên là một tỉnh ven biển thuộc khu vực Bắc Trung Bộ có đường bờ biển dài từ Bắc xuống Nam nên văn hóa bị chi phối rất lớn bởi yếu tố biển từ thời kỳ tiền sơ sử cho đến tận ngày nay, đặc biệt là các địa phương ven biểncả về khía cạnh mưu sinh, ăn ở, đi lại cho đến tín ngưỡng tôn giáo. Về tín ngưỡng tôn giáo, do sống phụ thuộc vào biển cả mà các tín ngưỡng thờ vị thần biển và các vị thần liên quan đến biển, cả nhiên thần và nhân thần xuấthiện khá đậm đặc ở đây. Trong quan niệm của công đồng cư dân nơi đây, các vị thần này thường giúp đỡ, che chở, phù hộ cư dân nơi đây tai qua nạn khỏi, ngư dân thì đi biển tôm cá đầy khoang, tránh được mưa gió, bão tố, nắng hạn, tai ương do biển cả gây ra. Các vị nhân thần là những danh nhân trong lịch sử Việt Nam như các vị đại quan, vị tướng giỏi có công lao đối với nhân dân vùng biển và đất nước trongchống giặc ngoại xâm, khai hoang lấn biển, lập làng, ổn định chính trị, xã hội, phát triển kinh tế được cộng đồng nhiều đời nhớ ơn, được thiêng hóa, qua các nhiều triều đại phong kiến đã ban sắc phong thần và đi vào tiềm thức, làm chỗ dựa tinh thần cho nhân dân,tiêu biểu cóSát Hải Đại Vương Hoàng Tá Thốn. Song song với việc tồn tại tín ngưỡng dân gian trên là việc hình thành một hệ thống các di tích lịch sử - văn hóathờ Hoàng Tá Thốn được bố trí trải rộng trên các huyện ven biển Hà Tĩnh: Lộc Hà và Thạch Hà; thể hiện được bề dày lịch sử, văn hóa, bản sắc văn hóa của địa phương mà ít lặp lại ở các vùng miền khác, thể hiện truyền thống đạo lý uống nước nhớ nguồn, nhớ tới công ơn của các bậc tiền nhân buổi ban đầu đã có công xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước.
1. Hoàng Tá Thốn và các di tích liên quan ở Hà Tĩnh
Hoàng Tá Thốn là một vị tướng dưới triều nhà Trần. Ông sinh năm Giáp Dần (1254) vào đời vua Trần Thái Tông ở làng Vạn Phần, phủ Diễn Châu, nay là xã Diễn Vạn, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Ông được coi như là vị thần vùng sông biển Việt Nam, được thờ ở khắp các cửa biển. Sau khi ông mất, những làng ở ven biển, cửa sông, cửa lạch như ở Quảng Ninh, Hải Phòng, Thanh Hóa, Ninh Bình, Nam Định, Hà Tĩnh… đều có đền thờ ông.
Thửa nhỏ, Hoàng Tá Thốn nổi tiếng là người có sức khỏe, giỏi cả văn lẫn võ hiếm ai sánh kịp. Lớn lên, ông tham gia cuộc kháng chiến chốngNguyên Mông. Theo văn bia dẫn tích và phả tộc họ Hoàng ở Vạn Tràng (Nghệ An) thì: “Đời vua Trần Nhân Tông, năm Mậu Tý (1288) niên hiệu Trùng Hưng, tướng Nguyên Mông là Thoát Hoan và Ô Mã Nhi sang xâm lược Thăng Long, tướng quân Hoàng Tá Thốn được cấp ấn phù, thống lĩnh hàng vạn quân cùng tàu thuyền phục kích ở sông Bạch Đằng đại phá quân giặc…”. Dưới sự chỉ đạo tài lược của Trần Hưng Đạo, trận đánh diễn ra ác liệt, quân Đại Việt đại thắng, Ô Mã Nhi bị bắt sống. Tin vui thắng trận báo về triều đình. Vua Trần Nhân Tông phong cho ông là “Sát Hải Chàng Lại Đại tướng quân”. Do lập nhiều chiến công, Hoàng Tá Thốn được nhà Trần cho thống lĩnh thủy binh trông coi 12 cửa sông và bảo vệ vùng duyên hải nước ta lúc đó.
Có tài bơi lặn, ông lập nhiều chiến tích trong các trận đánh thủy quân như lặn xuống sâu đục thủng thuyền, ông đồng loát cho tháo nút để nước chảy vào đột ngột nhấn chìm tàu địch.
Sau đại thắng Nguyên Mông, Hoàng Tá Thốn phụng mệnh vua chinh phạt Chiêm Thành và ông được phong Sát Hải Đại Tướng Quân Thủy Vương. Trong thời gian đi chính phạt Chiêm Thành, ông lưu lại nhiều ngày ở núi Nam Giới, trấn giữ biên giới phía nam của đất nước Đại Việt lúc bấy giờ. Ông đã nhiều lần đưa đội quân thủy bộ kéo vào chân núi Quỳnh Viên lập nhiều chiến công hiển hách làm cho quân Chiêm Thành bạt vía không giám lấn chiếm quấy nhiễu nữa. Nhà vua nghe tin chiến thắng của Hoàng Tá Thốn, tổ chức ăn mừng và phong tiếp cho ông là Thánh hoàng Đại vương. Giặc tan, nơi biên ải được bình yên, tại đây, ông còn chiêu dân tứ phương khai hoang phục hóa mở ra nhiều vùng đất rộng lớn phát triển nông nghiệp, đưa đến sự phồn thịnh vùng đất này. Ông cử các tướng lĩnh đảm đương quản lý các vùng đất, đắp đê, đắp đập. Ngoài ra, theo truyền thuyết, ông còn dạy dân làm nghề nghiệp khác, trong đó có nghề thợ nề ở xã Kiều Mộc (nay là xã Thạch Đỉnh) còn tồn tại cho đến ngày nay. Hoàng Tá Thốn lấy vùng đất dưới chân núi Quỳnh Viên đóng đại quân bởi đây sông núi hữu tình, lại có cửa biển ra vào thuận lợi cho điều hành quân thủy bộ, bởi phía nam có có núi Vạn Sơn như một đài quan sát, vùng nam lại có một rừng trâm rộng lớn thuận lợi cho quân sự. Phía bắc có núi Quỳnh Viên che chắn hiểm trở là một vùng đất thiên thời địa lợi. Sắp xếp ổn định trong ngoài, Hoàng Tả Tốn đã cùng quân sĩ và nhân dân đắp đập ngăn sông để sản xuất lương thực, phát triển nhiều ngành nghề như đánh bắt thủy sản, chẻ đá, nung vôi, nghề thợ nề.
Hoàng Tá Thốn mất ngày 15 tháng Ba năm Kỷ Mão (1399), thọ 85 tuổi. Sau khi mất, nhà nước phong kiến cho thuyền rồng chở thi hài ông về an táng tại quê nhà Vạn Phần. Sau đó, ông đượcNhân dân lập đền thờ ở nhiều nơi. Ở Hà Tĩnh có một số di tích tiêu biểu như sau:
Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh Đền Sát Hải Đại Vương cũng là một di tích tiêu biểu thờ Hoàng Tá Thốn ở Hà Tĩnh. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, di tích thuộc làng Yêm Điềm, tổng Phù Lưu, nay thuộc thôn Hồng Phong, xã Thịnh Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.Đền Sát Hải Đại Vương nằm hướng chính Đông gồm có: Nghi môn, tắc môn, tam quan, bái đường và hậu cung. Cổng gồm 2 cột nanh, mỗi cột chia làm 3 phần: bệ, thân và đầu cột. Đầu cột đội nghê chầu. Hai bên cột nanh là tường dắc, trang trí xuyên hoa và trang trí 2 đôi cầu đối chữ Hán nói về cảnh sắc, địa thếlàng Yêm Điềm. Tắc môn trang trí phù điêu hình hổ. Tam quan xây kiểu chồng diêm, hai bên có tượng quan tả, quan hữu. Cột cổng tam quan được đắp hình nghê. Cổng chính đổ theo lối vòm, có đắp trang trí hổ phù. Bái đường có diện tích 5,1m x 3,92m có kết cấu kiến trúc kiểu vì kèo đơn giản gác tường, chia thành 3 gian, xung quanh xây tường bao, mái lợp ngói âm dương. Mặt trước bái đường có 3 cửa đi. Gian giữa bố trí hương án gỗ chạm trổ hoa tiết hoa cúc, chim phượng, phía trên bày trí đồ tế khí. Hậu cung có kiểu kiến trúc khá độc đáo, nối liền mái sau với bái đường, diện tích 4m x 2,5m chia làm 2 phần. Phần mái đổ hình vòm cuốn, phía trước tiếp giáp với mái sau bái đường, phía sau nối với phần còn lại của hậu cung. Mặt bằng phần sau được nâng cao hơn so với bái đường, trong xây hương án kiểu chân quỳ, phía trên bố trí long ngai và đồ tế khí khác.
Miếu Trửa là di tích khá tiêu biểu thờ Sát Hải đại vương Hoàng Tá Thốn làm thành hoàng làng ở Hà Tĩnh. Di tích xưa tọa lạc ở thôn My Thọ, xã Kiều Mộc, nay thuộc xã Đỉnh Bàn – Thạch Hà. Kiến trúc di tích bao gồm nghi môn, bái đường và hậu cung, được bố trí đăng đối trên trục thần đạo. Hạ điện là công trình 3 gian, mỗi gian trổ một cửa ra vào, đây là nơi hành lễ chính của Miếu Trửa. Thượng điện là đơn nguyên kiến trúc niên đại thời Nguyễn, được xây bít đốc hai đầu, mặt trước trổ 2 cửa ra vào kích thước bằng nhau. Thượng điện là nơi đặt bàn thờ thờ Hoàng Tá Thốn. Hiện, miếu còn lưu giữ nhiều hiện vật quý như: sắc phong, câu đối, hoành phi bằng chữ Hán là một bằng chứng về sự hình thành, phát triển vùng đất và tín ngưỡng thờ Sát Hải Đại Vương ở Hà Tĩnh.
Miếu Vua xưa thuộc làng My Thọ, xã Kiều Mộc, nay là xã Thạch Bàn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Di tích tọa lạc trên bãi đất rộng, ngoảnh hướng Đông Bắc, gần Cửa Sót. Di tích gồm hạ điện, trung điện và thượng điện, nghi môn, tắc môn. Hạ điện 3 gian, 2 hồi, mái lợp ngói đất nung, nền láng xi măng, thượng ốc đắp lưỡng long chầu cuốn thư, 4 góc mái hình đầu đao uốn cong. Kiến trúc trung điện như hạ điện, xà ngang và xà dọc bằng bê tông cốt thép, gian giữa đặt bàn thờ 2 cấp, ốp gạch men màu đỏ. Thượng điện quy mô nhỏ hơn, bờ nóc đắp rồng chầu mặt nguyệt, nền thượng điện cao hơn nền hạ điện và trung điện. Di tích có các câu đối ca ngợi sự linh thiêng của ngôi miếu và cảnh đẹp quanh miếu.
Đền Đại Hải có thờ Hoàng Tá Thốn xưa thuộc thôn Như Sơn, tổng Hạ Nhị, phủ Thạch Hà, nay thuộc làng Đại Hải, xã Thạch Hải, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Di tích được xây dựng lâu đời theo mô thức truyền thống vùng ven biển huyện Thạch Hà - Hà Tĩnh.Đền ngoảnh hướng Nam -Tây Nam với tam quan đắp voi ngựa chầu. Hạ điện đã thành phế tích. Trung điện 3 gian, 2 hồi. Thượng điện cũng 3 gian. Bờ nóc, bờ chảy được đắp nghê, rồng. Sắc phong tại Đền Đại Hải năm Thành Thái thứ 10 (1898) có ghi: “Sắc cho thôn Như Sơn, tổng Hạ Nhị, phủ Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh phụng thờ vị Sát Hải Tướng Quân Chi Thần, có công cứu nước giúp dân, từ lâu linh ứng, xưa nay chưa được ban cấp sắc phong. Nay vâng mệnh lớn, sai tướng quân đánh giặc thắng lợi, báo công, ghi ơn công đức thần mà ban phong là Trừng Trạm Dực Bảo Trung Hưng Chi Thần. Chuẩn cho phụng thờ như cũ để thần giúp đỡ dân ta…”
Bảng thống kê các di tích lịch sử - văn hóa thờ Hoàng Tá Thốn
|
STT |
Tên di tích |
Địa điểm |
Ghi chú |
|
1 |
Đền Sát Hải Đại Vương |
Xã Thịnh Lộc, huyện Lộc Hà |
Đã xếp hạng |
|
2 |
Miếu Trửa |
Xã Đỉnh Bàn – Thạch Hà |
Đã xếp hạng |
|
3 |
Đền Đại Hải |
Xã Thạch Hải – Thạch Hà |
Đã xếp hạng |
|
4 |
Đền Cả |
Xã Thạch Trị - Thạch Hà |
Đã xếp hạng |
|
5 |
Đền Sát Hải |
Xã Thạch Thanh – Thạch Hà |
Chưa xếp hạng |
|
6 |
Đền Đan Trản |
Xã Thạch Hải – Thạch Hà |
Chưa xếp hạng |
|
7 |
Đình Làng Thượng |
Xã Thạch Đài – Thạch Hà |
Chưa xếp hạng |
|
8 |
Đền Nen |
Xã Việt Tiến – Thạch Hà |
Đã xếp hạng |
|
9 |
Miếu Vua |
Xã Đỉnh Bàn – Thạch Hà |
Đã xếp hạng |
|
10 |
Đền Tam Tòa Tứ Vị |
Xã Đỉnh Bàn – Thạch Hà |
Chưa xếp hạng |
2. Thực trạng công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di tích thờ Hoàng Tá Thốn ở Hà Tĩnh
Di tích thờ Hoàng Tá Thốn ở Hà Tĩnh có số lượng không lớn so với tổng di tích được kiểm kê trên địa bàn Hà Tĩnh. Từ khi Luật Di sản văn hóa được ban hành năm 2000, ngành văn hóa, thể thao và du lịch có đầy đủ cơ sở pháp lý để bảo tồn và phát huy giá trị di tích. Hiện nay, Hà Tĩnh đã có 1.800 di tích được kiểm kê toàn tỉnh, trong đó có 550 di tích đã được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh, 86 di tích quốc gia, 2 di tích quốc gia đặc biệt. Theo thống kê của Bảo tàng tỉnh, di tích thờ Hoàng Tá Thốn ở Hà Tĩnh hiện nay có 10 di tích, trong đó có 5 di tích đã được xếp hạng cấp tỉnh, 1 di tích xếp hạng quốc gia. Các di tích được xếp hạng thuộc diện quản lý Nhà nước đang được chăm sóc, bảo quản và phát huy tốtgiá trị. Hàng năm, ngân sách nhà nước cấp hàng chục tỷ để tu bổ, tôn tạo chống xuống cấp. Tiêu biểu có Đền Nen (xã Việt Tiến – Thạch Hà) được tu bổ, tôn tạo trên quy mô lớn và bài bản với nhiều hạng mục được phục dựng theo hình dáng và kiến trúc ban đầu, là di tích có liên quan đến thờ Hoàng Tá Thốn lớn nhất trong tỉnh. Ngoài ra, công tác xã hội hóa trong bảo tồn di tích cũng có nhiều điểm đáng khích lệ. Nhiều di tích được các doanh nghiệp lớn, chủ sở hữu di tích và Nhân dân huy động kinh phí để đầu tư tu bổ, tôn tạo, góp phần biến di sản văn hóa vật thể này trở thành nguồn lực, tài nguyên văn hóa phát triển kinh tế xã hội của địa phương, phục vụ tốt nhu cầu đời sống tín ngưỡng của cộng đồng. Sau khi được xếp hạng, các di tích tuy có chủ sở hữu khác nhau nhưng đều được chính quyền cấp xã trực tiếp quản lý, ngành văn hóa hướng dẫn chuyên môn theo Luật Di sản văn hóa.
Ngành văn hóa thường xuyên tổ chức các đợt thanh, kiểm tra các hoạt động tại di tích, kịp thời chấn chỉnh các hoạt động làm sai lệch di tích gốc, mê tín dị đoan… ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục, vi phạm Luật Di sản văn hóa. Hàng năm, Cục Di sản văn hóa tổ chức tốt các hoạt động tập huấn nghiệp vụ về di sản, giúp các công chức, di sản viên cập nhật kiến thức phục vụ tốt nhiệm vụ công tác.
Các di tích thờ Hoàng Tá Thốn ở Hà Tĩnh chủ yếu chủ sở hữu công đồng nên việc huy động nguồn lực xã hội hóa là chủ yếu, có chăng, Nhà nước chỉ hỗ trợ thêm nhằm khuyến khích trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di tích. Các di tích thường có niên đại hàng trăm năm, lại thường nằm gần biển, chịu ảnh hưởng của mưa gió, bão tố nên tình trạng xuống cấp là không tránh khỏi, việc tu bổ tôn tạo đúng khoa học bảo tồn di tích cũng chưa thực sự đáp ứng đầy đủ và bài bản dẫn đến một số di tích gặp khó khăn trong phát huy giá trị. Nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao ở địa phương còn ít cũng gây khó khăn không nhỏ trong quá trình tu bổ và tôn tạo và phát huy gia trị di tích. Việc kết nối các di tích thành một hệ thống trên toàn tỉnh để phục vụ phát triển du lịch tâm linh, du lịch văn hóa ở Hà Tĩnh cũng chưa thực hiện được. Công tác chuyển đổi số trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích hầu như chưa được thực hiện dẫn tới việc khai thác, quảng bá phát huy giá trị di tích gặp nhiều khó khăn.
3. Các giải pháp tăng cường công tác bảo tồn và phát huy các giá trị các di tích thờ Hoàng Tá Thốn ở Hà Tĩnh
Bảo tàng hóa các hoạt động của di tích là giải pháp cần thực hiện trong giai đoạn hiện nay. Đó là việc áp dụng các kiến thức bảo tàng học trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di tích trên cơ sở tôn trọng, coi di tích và hiện vật gốc gắn liền với di tích là đối tượng ưu tiên trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích. Áp dụng các nghiệp vụ bảo tàng như: Sưu tầm, kiểm kê – tư liệu hóa, bảo quản – phục chế, trưng bày tuyên truyền và xây dựng chương trình giáo dục, trong đó việc sưu tầm bổ sung các tài liệu hiện vật liên quan tín ngưỡng thờ Hoàng Tá Thốn được coi là khâu công tác đầu tiên làm cơ sở cho các khâu công tác khác. Tiếp đó, công tác kiểm kê khoa học – tư liệu hóa di tích gốc và hiện vật gốc sẽ góp phần bổ sung thêm những thông tin nội dung lịch sử di tích và hiện vật biến di tích, hiện vật “chết” thiếu thông tin thành di tích, hiện vật “sống” chứa nhiều thông tin thông qua việc nghiên cứu đa ngành: dân tộc học, Hán Nôm học, di sản học, sử học và khảo cổ học. Từ đó, đề ra phương án bảo quản nhằm kéo dài tuổi thọ di tích và hiện vật gốc đến mức tối đa. Thêm vào đó, phục chế di tích và hiện vật trên cơ sở nghiên cứu khoa học sẽ làm phong phú thêm đối tượng cần bảo quản và phát huy. Trên cơ sở các hoạt động đó, việc dành các không gian thích hợp để trưng bày các hiện vật: Sắc phong, bằng cấp, thần tích và các văn bản Hán Nôm khác liên quan đến tín ngưỡng thờ Hoàng Tá Thốn một cách khoa học kết hợp với việc xây dựng các chương trình giáo dục là hết sức cần thiết để giới thiệu cho công chúng thêm hiểu biết về di sản.
Các di tích thờ Hoàng Tá Thốn cần không ngừng đổi mới về ứng dụng công nghệ số và khả năng tiếp cận. Di sản phải là sân chơi sáng tạo, nơi các công nghệ mới có thể phát triển và ứng dụng vào cuộc sống hàng ngày. Đổi mới công nghệ kỹ thuật số, di sản số có thể làm cho di sản dễ tiếp cận và hấp dẫn hơn, giúp khách tham quan đơn giản hóa trong việc tìm hiểu những lĩnh vực phức tạp và xúc cảm với các di tích gốc. Việc trước mắt là tạo một quỹ mã QR Code cho di tích trên cơ sở kiểm soát chất lượng của nội dung thể hiện nhằm cung cấp cho các nhà quản lý cho đến các doanh nghiệp du lịch, trường học, các tổ chức chính trị - xã hội … trên địa bàn mong muốn tìm hiểu về di sản văn hóa liên quan đến tín ngưỡng thờ Hoàng Tá Thốn mà kinh phí thực hiện rất ít từ đó nhân rộng cho toàn hệ thống di tích toàn tỉnh.
Phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Tĩnh thực hiện các chương trình ngoại khóa tại các di tích thờ Hoàng Tá Thốn, nhằm giáo dục truyền thống lịch sử và văn hóađến với các em học sinh, sinh viên trên địa bàn tỉnh.
Nâng cao sức mạnh của di sản nhằm biến đổi và phục vụ phát triển kinh tế xã hội, biến các di tích thờ Hoàng Tá Thốn thành nơi khám phá quan trọng, cung cấp kiến thức về lịch sử đã qua, mở mang về các ý tưởng mới. Khuyến khích phát huy tiềm năng của di sản trong việc mang lại sự thay đổi tích cực trong cộng đồng thông qua các di tích, hiện vật gốc.
Tăng cường công tác truyền thông để thế hệ trẻ có sự hiểu biết về di tích thờ Hoàng Tá Thốn nhiều hơn trên các phương tiện thông tin đại chúng như mạng xã hội, mạng internet, phát thanh, truyền hình, làm phong phú về nội dung, hấp dẫn về hình thức với nhiều phiên bản ngôn ngữ khác nhau ngoài tiếng Việt còn bổ sung thêm tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Pháp… nhằm mở rộng, phát triển công chúng không chỉ ở trong nước mà cả nước ngoài.
Cần xây dựng tua du lịch về nguồn, về với các di sản thờ Hoàng Tá Thốn để kết nối du lịch giữa các di tích tiêu biểu với nhau thu hút du khách tham quan trải nghiệm, nâng cao kiến thức lịch sử, văn hóa cho công chúng.
Tuyên truyền Luật Di sản văn hóa trong bảo vệ và phát huy các giá trị của di tích nói chung và di tích thờ Hoàng Tá Thốn ở Hà Tĩnh là giải pháp cần thiết. Luật Di sản văn hóa được bàn hành là cơ sở pháp lý quan trọng, có tính chất bản lề trong công tác bảo tồn – bảo tàng. Việc tuyên truyền luật đến với các chủ sở hữu di tích và cán bộ cơ sở phải là việc làm thường xuyên góp phần quan trọng trong việc tránh làm sai lệch giá trị di tích, bảo tồn nguyên trạng các di tích, hiện vật gốc và tăng cường giáo dục di sản hướng tới việc khai thác bền vững phục vụ phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội ở địa phương.
Tăng cường công tác quản lý Nhà nước, hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ, kết nối di sản, tổ chức hội thảo khoa học, biên soạn, xuất bản ấn phẩm, hợp tác quốc tế trong tu bổ và tôn tạo di tích liên thờ Hoàng Tá Thốn ở Hà Tĩnh cũng là những giải pháp cần tham khảo. Việc tăng cường thường quản lý Nhà nước đối với di tích được coi là giải pháp hiệu quả, vừa trước mắt vừa lâu dài, vừa đảm bảo cho di tích hoạt động đúng pháp luật, đúng chuyên môn nghiệp vụ, đồng thời tạo hành lang pháp lý cho việc xã hội hóa công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích. Việc hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động di tích, tránh được những mặt tiêu cực, hạn chế có thể xẩy ra trong công tác bảo tồn và phát huy gia trị di tích.
Tóm lại, trên cơ sở giới thiệu các di tích và chỉ ra thực trạng bảo tồn và phát huy các di tích thờ Hoàng Tá Thốn ở Hà Tĩnh, từ đó đề ra các giải pháp ngắn hạn cũng như dài hạn trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học và thẩm mỹ của di tích, bài tham luận muốn đóng góp một phần nhỏgiúp các nhà quản lý, nhà khoa học có cơ sở để nâng tầm giá trị di tích, góp phần vào phát huy bền vững những bản sắc văn hóa riêng của địa phương, tạo ra lợi thế cạnh tranh cho Hà Tĩnh phát triển toàn diệncác mặt kinh tế, văn hóa và xã hội trong giai đoạn hiện nay./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Duy Báu (2016), Lịch sử Hà Tĩnh, Tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia Sự Thật.
2. Thái Kim Đỉnh (Chủ biên – 2015), Địa chí Thạch Hà, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
3. Ninh Viết Giao (2000), Tục thờ thần và thần tích Nghệ An, Sở Văn hóa – Thông tin Nghệ An, Vinh.
4. Nguyễn Trí Sơn (Chủ biên - 2014), Di tích Lịch sử - Văn hóa Thạch Hà, Nxb Nghệ An, Nghệ An.
5. Bùi Thiết (2000), Từ điển Hà Tĩnh, Sở VH-TT Hà Tĩnh.
6. Hồ sơ các di tích lịch sử - văn hóa thờ Hoàng Tá Thốnlưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Hà Tĩnh.