Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Các điều khoản trong tài liệu Hương ước về khuyến học được biết cho đến nay khá phong phú thể hiện truyền thống hiếu học, khoa bảng có từ hàng trăm năm của người dân Hà Tĩnh của nhiều làng xã dưới thời phong kiến ở các huyện trên địa bàn toàn tỉnh. Mỗi nơi có cách thể hiện cụ thể không giống nhau nhưng tựu trung lại là tôn trọng, khuyến khích học tập, cổ vũ, động viên người có học và đỗ đạt cao.
Các thư tịch cổ đã cho thấy vùng đất Hà Tĩnh đã có truyền thống khuyến học từ lâu đời. Nơi đây nhân dân đã biết tích góp lấy các phần thưởng để thưởng cho những người học hành chăm chỉ đỗ đạt. Câu chuyện về người cha của Thám hoa Nguyễn Huy Oánh là Nguyễn Huy Tựu lấy mẫu ruộng riêng của mình lập “ruộng khoa danh” để biểu dương, khen thưởng những người đỗ đạt. Câu chuyện này được Nguyễn Huy Oánh kể lại như sau: Cha ông là quan Tham chính, thủa nhỏ nghèo túng, mới cùng mẹ ông chuyển nhà về phía Nam làng lấy việc dạy dỗ học trò làm vui. Học trò bốn phương đến thụ nghiệp có đến 1218 người. Tiền quà lễ thầy của người đời cha ông để riêng một bao, sau đó mua được một mảnh ruộng ở Cồn Hiên. Theo năm tháng, mảnh đất này rộng dần lên hơn một mẫu. Lúc rỗi việc giảng học, cha ông dẫn các cháu đi xem xét vòng quanh ruộng mấy lượt, rồi bùi ngùi quay về nhà. Đến khi cha ông mất có lời trăng trối, ông cùng anh em ngồi chực bên dường, chưa nói đến việc khác, trước tiên cha ông dặn dò việc lấy ruộng đó làm “ruộng khoa danh”, lại giảng giải rằng phàm là chi trên, phái dưới, tức đều có hai bảng thi Hương và thi Hội trong thứ hạng đã chia; đã phân đại khái một lần rồi lại phân dần dần, có ai đỗ thì lấy của chung đó mà khen thưởng, biểu dương.[1]
Qua điều ước thôn Trường Lưu, ngoài việc quy định về phong hóa, quy định cúng tế ở đình, đền, ruộng tế, ruộng đất công, núi non, kho nghĩa thương, tiền của công, đường sá, đê điều, cầu cống, giếng nước, hồ ao, vệ sinh còn có quy địnhh lễ mừng thi đỗ thăng quan...[2] Nếu người nào đỗ đạt được phong sắc và thăng chức thủ chỉ, dùng câu đối, trầu cau, rượu để chúc mừng.[3] Nếu có người được đỗ đạt, thăng chức hoặc lên lão 60 trở lên được bái yết thần linh thì được dùng trầu cau rượu đến yết vọng.[4]
Hương ước xã Phù Lưu Thượng (nay là xã Hồng Lộc, huyện Lộc Hà) năm Tự Đức thứ 7 (1854) phần lệ sai điền ngoài quy định giành phần ruộng để thu hoa lợi cúng tế, ruộng biếu quan viên, ruộng dưỡng lão, ruộng binh đinh, ruộng hương thân thì xã giành một phần ruộng quan trọng làm ruộng khuyến học giao cho Văn hội trông coi, sử dụng. Tất cả các loại ruộng này đều được miễn thuế[5]. “Đặt ruộng khuyến học 4 mẫu 10 thước, trong đó 2 mẫu ở xứ đồng Hổ, xứ Cồn Khẩu […] còn 2 mẫu nữa và 10 thước ở xung quanh đền [...]. Bản xã hàng năm mời thầy về dạy học (thầy là cử nhân hay tú tài) cho học trò trong xã. Số ruộng ấy giao cho các lân trưởng (trưởng xóm) cày cấy, hàng năm chiểu thu thóc như các thửa xung quanh đền, chi thu vụ hè mỗi mẫu 10 phương (mỗi phương 50 bát); ruộng ở xứ đồng Hổ vụ hè mỗi mẫu 10 phương, vụ thu mỗi mẫu 5 phương. Số thóc ấy dùng để nuôi thầy. Lại đặt tiền vay 75 quan, giao cho các lân trưởng luân lưu giữ (nếu có kiện cáo giao cho hương nhân giữ, mỗi vụ chiểu thu tiền lãi 15 quan nạp cho thầy để làm lễ thúc tu, không được gây chuyện phá ngang, người nào làm trái, cứ lân trưởng bồi thường.”[6]
Dòng họ Nguyễn Huy - Trường Lưu, một dòng họ khuyến học tiêu biểu ở Hà Tĩnh (Ảnh Internet)
Hương ước xã Phù Lưu Thượng (nay là xã Hồng Lộc, huyện Lộc Hà) năm Tự Đức thứ 7 (1854) phần lệ sai điền còn ưu tiền chia thêm phần ruộng cho người đỗ đạt. “Đặt ruộng quan viên 5 mẫu tại xứ đổng Hổ (đông gần suối nhỏ, tây gần ruộng các xóm, nam gần ruộng câu đương, bắc gần ruộng tế Đinh) gồm 15 thửa liền nhau. Số ruộng này, chiếu cứ khoa trường và quan viên văn võ, mà chia ra các hạng khác nhau cấp cho như: Khoa trường đệ nhất giáp 5 phần, đệ nhị giáp 4 phần, đệ tam giáp 3 phần, phó bảng, cử nhân 2 phần, tú tài 1 phần.”[7].
Người được đỗ đạt cũng được khao thưởng, chúc mừng. Điều lệ xã Nhân Canh, tổng Hà Trung, huyện Kỳ Anh (nay là xã Kỳ Châu, thị xã Kỳ Anh) quy định “Đỗ đại khoa thì khao thưởng 20 quan tiền, đỗ phó bảng thì thưởng 15 quan tiền, đỗ cử nhân thưởng 10 quan tiền, tú tài 6 quan […] Lễ mừng đại khoa 15 quan, phó bảng 10 quan, cử nhân 6 quan, tú tài 5 quan và đều được mừng 1 đôi câu đối.”[8]. Hương ước thôn Xuân Trì (nay thuộc xã An Hòa Thịnh) quy định: “Người đỗ tiến sĩ trở lên, lễ mừng 10 quan, trầu rượu trị giá 2 quan. Người đỗ phó bảng, cử nhân văn, lễ mừng 5 quan và trầu rượu. Người đỗ cống sinh, cử nhân võ, tú tài mừng tiền 3 quan và trầu rượu. Lệ mừng người đỗ tiến sĩ, phó bảng võ cũng giống lệ mừng người đỗ tiến sĩ, phó bảng văn.”[9]
Dưới xã hội phong kiến, ở Hà Tĩnh cũng có phong tục mừng người đỗ đạt khoa cử, coi việc đó là quan trọng nhất thể hiện truyền thống học hành khoa cử của địa phương đã có từ lâu đời. Hương ước thôn Vĩnh Lộc (nay thuộc xã Cẩm Thịnh, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh) năm Bảo Đại thứ 17 (1942) quy định: “Khoa cử là quan trọng nhất, lễ mừng cho người đỗ đại khoa, định tiền 50 quan, người đỗ trung khoa 30 quan, đỗ tiểu khoa 20 quan.”[10] Hương ước xã Trung Hà, tổng Chu Lễ, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, năm Bảo Đại thứ 6 (1931), quy định: “Lễ chúc mừng. Người nào dự thi có văn bằng, có khao vọng tại trong hương, thì loại lớn dùng một con bò, loại vừa một con lợn, loại nhỏ dùng trầu rượu.”[11] Hương ước xã Phù Lưu Thượng (nay thuộc xã Hồng Lộc, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh), năm Tự Đức thứ 7 (1854), phần lễ khánh hạ (chúc mừng có ghi: “Hễ khi văn sĩ, có người đỗ đại khoa nhất giáp mừng tiền 40 quan, một bức trướng giá tiền 25 quan (bài văn mừng vốn do quan hội trưởng soạn, nếu bận công việc đi xa cũng phải cho người đem đến bản xã trình bản khởi thảo, không được thuê người làm thay, sẽ không tránh khỏi sự bất nhã). Người đỗ đại khoa nhị giáp, mừng tiền 30 quan, một bức trướng trị giá 20 quan. Người đỗ tam giáp mừng tiền 20 quan, một bức trướng 15 quan. Người đỗ phó bảng, mừng tiền 20 quan, một câu đối trị giá tiền 3 quan, ngày vinh quy bản xã, ở kỳ đầu sai người đem nghi trượng cờ trống và đinh phu 50 tên đến bản tỉnh đón rước để được long trọng. Người đỗ cử nhân, mừng tiền 10 quan, đôi câu đối trị giá 2 quan. Người đỗ tú tài, mừng tiền 6 quan, trầu rượu trị giá 6 mạch, ngày hôm sau khi đăng tên trên bảng, bản xã sai người đem nghi trượng, cờ trống và 30 tên đinh phu đến địa giới bản huyện đón rước, để việc ấy được trọng thị.”[12]
Về lễ biếu ở xã Phù Lưu Thượng, những người có học hành khoa bảng cũng được ưu tiên, kính trọng và được quy định rất chặt chẽ có thứ bậc rõ ràng từ trên xuống dưới, từ cấp thấp đến cấp cao, coi trọng văn hơn võ, người khoa mục hơn người chức tước thể hiện một phần quan trọng nền trí trị trong cộng đồng làng xã xưa, hiện nay còn nguyên giá trị để tham khảo, học tập vì “hiền tài là nguyên khí quốc gia”. Hương ước chỉ rõ: “Biếu là thể hiện lòng người vậy. Thờ ở từ vũ thì bậc khoa trường là chủ, vốn xứng đáng là quan Hội trưởng, còn các bậc quan viên văn võ không xuất thân từ khoa mục, thì không được viện lý do mình có phẩm hàm mà tranh ngôi trưởng. Thờ ở đình trung thì kiêm quản quan tước khoa trường làm trọng, vốn xứng đáng là quan thủ chỉ, còn việc thứ tự trước sau, chiểu y như lệ cấp ruộng mà thi hành, không được viện lý do mình có phẩm hàm mà tranh ngôi trưởng. Như lễ tế Nhị đình, đầu con vật sống làm lễ tế, biếu cho người giáp thứ nhất, đầu con vật sống làm tế lễ khác biếu các viên thuộc giáp thứ hai, thịt ướp biếu các viên thuộc giáp thứ ba. Nếu như không có người thuộc giáp thứ nhất, thì đầu con vật làm lễ tế, biếu giáp thứ hai, đầu con vật làm tế lễ nữa, biếu các viên thuộc giáp thứ ba. Thịt ướp biếu các viên phó bảng, cử nhân. Nếu không có người thuộc giáp thứ nhất, giáp thứ hai, đầu con vật sống biếu các viên thuộc giáp thứ ba, óc và lưỡi biếu các hội trưởng. Còn cỗ chín biếu mỗi viên hai mâm, cổ con vật sống làm lễ tế biếu các viên phó bảng, cử nhân, cổ chính biểu mỗi viên một mâm. Thịt ướp nữa trên biếu các viên tú tài, cổ chín hai viên một mâm, thịt ướp nửa dưới biếu các viên văn võ (không thuộc chân xuất thân khoa mục) và các viên chức sắc, hương thân đến làm lễ (như: tả văn, bồi tế, điểm, độc, thượng hương, tiến tước). Cứ bốn viên được một mâm cổ chín. Nếu như chưa có tiến sĩ, đầu con vật sống làm tế lễ, biếu các viên phó bảng, cử nhân, óc lưỡi biếu riêng hội trưởng. (Như: có phó bảng, lấy phó bảng làm hội trưởng, chưa có phó bảng lấy cử nhân làm thủ khoa làm hội trưởng, ngoài ra đều phỏng theo như thế). Cỗ chín hội trưởng hai mâm, còn lại mỗi viên một mâm. Đầu con vật sống làm lễ tế các viên tú tài, cỗ chín cùng hai viên một mâm.”[13]
Trong xã hội phong kiến những người có học hành cũng được ưu tiên giảm bớt gánh nặng trách nhiệm chung đối với việc làng việc nước. Hương ước xã Vân Chàng (nay thuộc thị xã Hồng Lĩnh) năm Bảo Đại thứ 17 (1942) ghi rõ lệ khích lệ: “Xã ta vốn xưng là xã văn hiến, nên các sĩ tử được miễn trừ sưu dịch thì dân mới trọng. Nay nghĩ loại người được đi thi thì thu 4 hào. Người nào đã qua kỳ thi thì giảm 2 hào. Đỗ nhất trường thì thu 4 hào, đỗ nhị trường thì thu 6 hào. Các tạp dịch của người đó cũng châm chước để tỏ sự chuộng văn học”.[14]
Tóm lại, truyền thống khuyến học thông qua hương ước, điều ước ở Hà Tĩnh, qua bao thế hệ, được lắng đọng lại tạo nên “lớp trầm tích” dày, hiện nay còn có giá trị rất cao cần khai thác, tham khảo và kế thừa, là nền tảng, tiền đề cho việc học hành, khoa cử, phát triển giáo dục ở mọi cấp học, giúp nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, góp phần xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh Hà Tĩnh hiện tại và tương lai./.
Chú thích:
[1]. Bảo tàng tỉnh Hà Tĩnh (2017), Văn bia Hà Tĩnh, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.81-82
[2]. Võ Hồng Huy (Chủ biên, (2013), Địa chí huyện Can Lộc, Nxb Nghệ An, tr.144.
[3]. Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương (Sưu tầm) (1996), Hương ước Hà Tĩnh, Sở VH-TT Hà Tĩnh, tr.103.
[4]. Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương (Sưu tầm) (1996), Hương ước Hà Tĩnh, sđd tr.105.
[5]. Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương (Sưu tầm) (1996), Hương ước Hà Tĩnh, sđd tr.14.
[6] Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương (Sưu tầm) (1996), Hương ước Hà Tĩnh, sđd tr.47.
[7] Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương (Sưu tầm) (1996), Hương ước Hà Tĩnh, sđd tr.46.
[8] Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương (Sưu tầm) (1996), Hương ước Hà Tĩnh, sđd, tr.74.
[9] Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương (Sưu tầm) (1996), Hương ước Hà Tĩnh, sđd, tr.74.
[10] Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương (Sưu tầm) (1996), Hương ước Hà Tĩnh, sđd, tr.179.
[11] Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương (Sưu tầm) (1996), Hương ước Hà Tĩnh, sđd, tr.146.
[12]Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương (Sưu tầm) (1996), Hương ước Hà Tĩnh, sđd, tr.49.
[13] Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương (Sưu tầm) (1996), Hương ước Hà Tĩnh, sđd, tr.48.
[14] Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương (Sưu tầm) (1996), Hương ước Hà Tĩnh, sđd, tr.190.