Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Ngày 02/05/2005, ông Nguyễn Văn Minh, người xã Cẩm Yên – Cẩm Xuyên đã phát hiện hũ tiền cổ trong khi đào gốc cây phi lao trong vườn. Ông Minh đã chuyển giao cho Bảo tàng Hà Tĩnh. Số tiền cân được 12kg, sau khi đã làm sạch đất và bảo quản tại kho. Qua nghiên cứu, cán bộ Bảo tàng tỉnh đã phân loại được 50 loại, có xuất xứ Việt Nam và Trung Quốc, trong đó tiền thời Lê Sơ có 06 loại với 54 xu. Đồng muộn nhất của tiền Việt Nam là Gia Thái Thông Bảo (嘉泰通寶) của vua Lê Thế Tông đúc trong giai đoạn 1573 – 1577. Đồng muộn nhất của tiền Trung Quốc là đồng Tuyên Đức Thông Bảo (宣德通寶) của Minh Tuyên Tông đúc năm 1433. Như vậy, hũ tiền này được chôn vào cuối thế kỷ 16.
Xã Cẩm Yên, huyện Cẩm Xuyên, trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, là các làng Yên Dưỡng, Yên Nhân, Yên Xá, tổng Vân Tán. Xã có 11 thôn: Yên Bình, Yên Giang 1, Yên Giang 2, Yên Hồ, Yên Lạc, Yên Mỹ, Yên Minh, Yên Phượng, Yên Quý, Yên Thành, Yên Thọ. Xã Cẩm Yên, phía đông bắc giáp xã Cẩm Hòa, phía đông nam, giáp 02 xã Cẩm Dương và Cẩm Nam, phía nam, giáp xã Cẩm Huy, phía tây nam và tây bắc, giáp các xã Cẩm Bình, Cẩm Quang và xã Thạch Hội (huyện Thạch Hà). Kinh tế chủ yếu là làm nông nghiệp và một số nghề phụ khác. Các di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn xã đã trở thành phế tích[1]. Việc phát hiện tiền cổ nơi đây mang đến cho các nhà khảo cổ, lịch sử, bảo tàng có cái nhìn mới về quá trình lưu thông tiền tệ, giao thương buôn bán hàng hóa ở vùng đất này trong lịch sử, đặc biệt là thời Lê Sơ, sau khi vùng đất này nói riêng và Hà Tĩnh cùng với Nghệ An nói chung là đất đứng chân (lập cước chi địa) của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo, tạo bàn đạp tấn công ra phía bắc lần lượt giải phóng hoàn toàn đất nước khỏi giặc Minh xâm lược. Vùng đất này xa kinh thành Thăng Long, điều kiện phát triển kinh tế, xã hội không thực sự thuận lợi. Tuy nhiên, qua nghiên cứu những đồng tiền thời Lê Sơ phát hiện ở đây cũng cho thấy một phần của việc trao đổi hàng hóa, thông qua tiền tệ để lưu thông.
Thời Lê Sơ, đặc biệt là thời “Hồng Đức thịnh thế”, xã hội Đại Việt đã có sự phát triển vượt bậc trên mọi phương diện, là đỉnh cao của nhà nước phong kiến trung ương tập quyền. Nền kinh tế hàng hóa đã có bước tiến lớn,
thể hiện qua câu ca dân gian: “Đời vua Thái Tổ, Thái Tông/Thóc lúa đầy đồng trâu chẳng buồn ăn”. Để phục vụ nhu cầu trao đổi trung gian, triều Lê Sơ đã rất coi trọng phát hành tiền tệ trong sản xuất hàng hóa. Tiền tệ thời kỳ này đã có sự thống nhất, chất lượng tiền tệ đạt đến trình độ cao thể hiện trình độ phát triển khoa học, công nghệ đương thời. Tiền được đúc ra thư pháp chủ yếu là chữ chân thư ngay ngắn, rõ ràng, chuẩn mực, có độ sâu 3 chiều, biên tiền vừa phải.
Tiền Lê Sơ trong bộ sưu tập phát hiện tại xã Cẩm Yên – Cẩm Xuyên gồm có: Thuận Thiên Nguyên Bảo (順天元寶), Thiệu Bình Thông Bảo (紹 平通寶), Thái Hòa Thông Bảo (太和通寶), Diên Ninh Thông Bảo (延寜通寶), Quang Thuận Thông Bảo (光順通寶), Hồng Đức Thông Bảo (洪德通寶).
Tiền Hồng Đức Thông Bảo
Năm 1428, sau khi đánh bại quân Minh xâm lược, ca khúc khải hoàn, Lê Lợi lên ngôi vua, thành lập nhà Lê Sơ, đặt quốc hiệu Đại Việt, lấy niên hiệu Thuận Thiên (1428 – 1433) và cho đúc tiền Thuận Thiên Nguyên Bảo (順天元寶) vào thời kỳ đầu niên hiệu Thuận Thiên, bù đắp cho sự khan hiếm tiền tệ thời bấy giờ do bị chiến tranh tàn phá. Vua cho rằng “tiền là huyết mạch của dân chúng, không thể không có”, chế định ban “Tệ chế luật lệ, dĩ thuận dân ý” (luật lệ về tiền tệ, thuận theo ý dân). Tuy được đúc không nhiều nhưng nó đã góp phần ổn định tiền tệ, phát triển kinh tế thời kỳ đầu Lê Sơ[1]. Chất lượng tiền hơn giai đoạn trước đó, đặt nền móng cho tiền tệ về sau. Trong bộ sưu tập tiền cổ ở xã Cẩm Yên có 03 xu tiền Thuận Thiên Nguyên Bảo cho thấy đồng tiền này đã được sử dụng khá phổ biến ở vùng phía nam của quốc gia Đại Việt, trên địa bàn Hà Tĩnh thời bấy giờ.
Tiền Thiệu Bình Thông Bảo (紹 平通寶) được vua Lê Thái Tông cho đúc vào ngày 04 tháng 9 năm 1434, sau khi nhà vua lên ngôi, thay vua cha khi Lê Thái Tổ băng hà. Tiền Thiệu Bình Thông Bảo được đúc khá tinh xảo, thư pháp chữ Hán thể hiện ở mặt trước của tiền chỉnh chu. Việc đúc tiền có sự thiếu hụt thời kỳ trước. Tuy nhiên, trên cơ sở đúc tiền thời vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông đã phát hành tiền mới, quy định loại tiền tròn lỗ vuông là loại tiền lưu thông chủ yếu, loại bỏ tiền Thông Bảo Nội Sao có từ thời Hồ trong hoàn cảnh kinh tế phát triển chậm, sức sản xuất đang giai đoạn phục hồi, xã hội phong kiến vẫn chưa ổn định, nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra[2]. Việc phát hiện
09 đồng Thiệu Bình Thông Bảo chôn vào thế kỷ 16 tại xã Cẩm Yên cho thấy tiền thời vua Lê Thái Tông được sử dụng nhiều ở Hà Tĩnh. Tất cả còn nguyên vẹn, đường nét rõ ràng, chuẩn mực dẫu nằm trong lòng đất hơn 4 thế kỷ.
Đại Hòa Thông Bảo (大和通寶), được vua Lê Nhân Tông cho đúc vào năm 1443-1453. Sau khi lên ngôi vua năm 1443, Lê Nhân Tổng lấy niên hiệu Đại Hòa. Tiền Đại Hòa Thông Bảo phát hiện ở xã Cẩm Yên gồm 10 xu, mang đặc trưng của tiền Lê Sơ với chất lượng đồng tốt, nét chữ Hán thể chân thư, thanh thoát, chuẩn mực.
Diên Ninh Thông Bảo (延寜通寶), được vua Lê Nhân Tông cho đúc năm 1454-1459. Sau khi lấy niên hiệu Diên Ninh vua Lê Nhân Tông nhiều lần cho đúc đồng tiền này. Tiền Diên Ninh Thông Bảo phát hiện ở xã Cẩm Yên số lượng ít hơn tiền Đại Hòa Thông Bảo nhiều, chỉ có 02 xu. Mang đặc trưng của tiền thời Lê Sơ, các đồng tiền này rất đẹp về hình thức, chất đồng tốt, ít bị hoen rỉ và đang trong tình trạng khá tốt.
Quang Thuận Thông Bảo (光順通寶), được vua Lê Thánh Tông cho đúc năm 1460-1469 sau khi lên ngôi, lấy niên hiệu là Quang Thuận. Dưới đời vua Lê Thánh Tông, đất nước có những bước phát triển mạnh mẻ cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, giáo dục, quân sự và mở rộng cương vực lãnh thổ. Thương nghiệp phát triển nhanh chóng. Nông nghiệp bội thu. Thủ công nghiệp có nhiều bước tăng trưởng. Do đó, nhu cầu tiền tệ ngày càng lớn, giải quyết được cơ bản tình trạng hỗn tạp tiền tệ giai đoạn đầu thời Lê Sơ. Thời kỳ này, tiền được đúc nhiều lần thể hiện rõ ở hình thức thư pháp chữ Hán, trên mỗi đồng tiền. Hầu như, năm nào trong niên hiệu Quang Thuận cũng cho đúc tiền. Tiền giả bị nghiêm cấm và không được đưa vào lưu thông. Tiền Quang Thuận Thông Bảo phát hiện ở xã Cẩm Yên có số lượng tương đối nhiều, bao gồm 07 xu.
Năm 1470, Lê Thánh Tông lấy niên hiệu Hồng Đức. Niên hiệu này kéo dài 28 năm từ năm 1470 đến năm 1497. Sau khi đổi niên hiệu, vua Lê Thánh Tông cho đúc tiền Hồng Đức Thông Bảo (洪德通寶). Tiền Hồng Đức Thông Bảo phát hiện ở xã Cẩm Yên có số lượng nhiều nhất: 23 xu, chiếm gần một nửa số tiền phát hiện. Điều này cho thấy, sau khoảng một thế kỷ ra đời, tiền thời Hồng Đức vẫn được sử dụng rộng rãi ở xã Cẩm Yên vào thế kỷ 16 . Trong số những đồng tiền thời Lê Sơ phát hiện ở xã Cẩm Yên thì đồng Hồng Đức Thông Bảo có thư pháp đẹp và chuẩn mực nhất, thể hiện được tiềm lực đất nước đương thời. Tiền ở thể chân thư đường nét dứt khoát, cân đối, to, rõ ràng, nét sâu. Biên tiền đều đặn, phân minh, có tính thẩm mỹ cao. Lưng tiền để trơn, không hoa văn trang trí và không có chữ Hán đúc nổi.
Việc phát hiện 06 loại tiền thời Lê Sơ tại xã Cẩm Yên được chôn vào cuối thế kỷ 16 cho thấy nền kinh tế hàng hóa ở vùng này đã có sự phát triển. Tiền tệ đã được đưa vào làm phương tiện để trao đổi hàng hóa. Bên cạnh tiền Trung Quốc được lưu thông thì nhà Lê Sơ đã chú trọng đến việc phát hành tiền tệ, tránh bị phụ thuộc bên ngoài. Thư pháp tiền Lê Sơ chủ yếu ở thể chân thư, đọc chéo. Về chất lượng tiền thời Lê Sơ cũng không hề kém tiền của Trung Quốc về độ bền, thẩm mỹ, kỹ thuật, công nghệ đúc tiền. So với tiền tệ các triều đại trước và sau của chế độ phong kiến Việt Nam, tiền tệ thời Lê Sơ toàn diện hơn cả. Từ đó góp phần làm cho nền kinh tế có tính tự chủ cao, thúc đẩy nhiều lĩnh vực khác phát triển, thể hiện tiềm lực quốc gia ngày càng vững mạnh, sau một thời gian dài chìm đắm trong chiến tranh, nền kinh tế, văn hóa, xã hội bị tàn phá nặng nề.
Việc gìn giữ và phát huy tiền tệ thời Lê Sơ ở Bảo tàng Hà Tĩnh có vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu lịch sử, đặc biệt là lịch sử kinh tế - xã hội của một giai đoạn phát triển đỉnh cao của chế độ phong kiến tập quyền của Việt Nam. Bên cạnh đó, chúng cũng phản ánh tình hình phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương vào cuối thế kỷ thứ 16. Ngoài ra, đây là những cổ vật quan trọng cần tuyên truyền phổ biến, giáo dục đến công chúng yêu thích, thưởng ngoạn tiền cổ, một thú chơi tao nhã đầy tính giải trí và văn hóa.
Chú thích:
(1) Theo Tiền kim loại Việt Nam, Phạm Quốc Quân (Chủ biên –2005), Bảo tàng Lịch sử Việt Nam,
Hà Nội, tr. 32
(2) Tiền kim loại Việt Nam, sđd, tr.32.
(3) Theo Từ điển Hà Tĩnh, Bùi Thiết chủ biên, Sở VH&TT năm 2000, tr.85-86.
Tài Liệu tham khảo
Hoàng Văn Khoán (2019), Những phát hiện tiền cổ ở Hà Tĩnh, Nxb Đại học Vinh. Phạm Quốc Quân (Chủ biên – 2005), Tiền kim loại Việt Nam, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Hà Nội. Bùi Thiết (chủ biên – 2000), Từ điển Hà Tĩnh, Sở VH&TT Hà Tĩnh. Tiền cổ Việt Nam trong Lịch đại cổ tiền đồ thuyết, Thông báo Hán Nôm 2004, tr.417 – 426.