Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Hà Tĩnh là vùng địa linh nhân kiệt có bề dày lịch sử - văn hóa, nằm ở dãi đất hẹp Bắc Trung Bộ. Thời kỳ tiền sơ sử, Hà Tĩnh đã có người sinh sống. Họ tụ cư ở sườn đồi núi, gần sông suối, bờ biển thuận tiện cho việc sinh sống, đánh bắt, hái lượm. Đến thời kỳ Bắc thuộc, Hà Tĩnh chứng kiến Mai Thúc Loan tiến hành cuộc khởi nghĩa nông dân chống lại sự áp bức đô hộ của nhà Đường. Đến thời kỳ phong kiến độc lập tự chủ, thời Tiền Lê, Lý, Trần, Hà Tĩnh là vùng biên viễn, phên giậu của quốc gia Đại Việt, giáp với đất nước Chiêm Thành nên là nơi có sự giao thoa tiếp biến văn hóa khá rõ nét. Đầu thế kỷ 15, nhiều vùng đất của Hà Tĩnh như Cẩm Xuyên, Đức Thọ, Hương Sơn là căn cứ địa, đất đứng chân của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống lại quân Minh xâm lược do Bình Định Vương Lê Lợi lãnh đạo, nhân dân Hà Tĩnh hưởng ứng trong đó phải kể đến Nguyễn Biên, Nguyễn Tuấn Thiện, Trần Thị Ngọc Hào,... Thế kỷ16-17, Hà Tĩnh là bãi chiến trường ác liệt của cuộc nội chiến Trịnh – Nguyễn. Thời kỳ thế kỷ 13-17, Hà Tĩnh bước đầu đã có sự xuất hiện của nền kinh tế hàng hóa, là nơi giao thương buôn bán trong và ngoài nước khá tấp nập qua các cửa biển như Cửa Hội, Cửa Nhượng, Cửa Sót, Cửa Khẩu. Các thuyền buôn Phúc Kiến, Nhật Bản… đi dọc các bờ sông vào các địa điểm như phố cổ Phù Thạch trên dòng sông Lam tiến hành các hoạt động buôn bán, trao đổi hàng hóa và lưu thông tiền tệ. Thời kỳ Tây Sơn, Hà Tĩnh cũng có nhiều đóng góp cho cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Thanh tiêu biểu có Nguyễn Thiếp, Hồ Phi Chấn, Dương Văn Tào, Đặng Hữu Cán, Đặng Quốc Đống…Thời Nguyễn, Hà Tĩnh có nhiều danh nhân làm rạng danh quê hương đất nước như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ. Thời Cần Vương, Hà Tĩnh là nơi diễn ra cuộc khởi nghĩa Hương Khê chống Pháp do Đình Nguyên Tiến sĩ Phan Đình Phùng lãnh đạo.
Từ những yếu tố lịch sử, địa văn hóa đó mà miền đất Hà Tĩnh đã sản sinh ra nhiều di sản lịch sử phong phú đa dạng về loại hình mang bản sắc riêng gồm: Di tích lịch sử - văn hóa, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia và di sản tư liệu, trong đó nổi bật là số lượng tiền cổ khá lớn, xuất xứ Việt Nam, Trung Quốc và Nhật Bản được phát hiện và sưu tầm trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh có niên đại sớm có từ thời Bắc thuộc và thời phong kiến độc lập tự chủ.
Tiền Khai Nguyên Thông Bảo
Tiền cổ Trung Quốc được phát hiện nhiều nơi ở Hà Tĩnh thuộc các triều đại Hán, Đường, Bắc Tống, Nam Tống, Kim, Nguyên, Minh, Khởi nghĩa chống Minh, Thanh. Theo thống kê chưa đầy đủ, tiền Trung Quốc ở Hà Tĩnh có 76 loại, được phân chia theo niên hiệu đời vua đúc tiền được phát hiện và sưu tầm ở các địa điểm khác nhau ở Hà Tĩnh, trong đó tiền thời Hán có 01 loại; tiền thời Đường có 05 loại; tiền thời Ngũ Đại thập quốc có 02 loại; tiền thời Tống có 54 loại; tiền thời Kim có 02 loại; tiền thời Minh có 06 loại; tiền thời Khởi nghĩa chống Minh có 03 loại; tiền thời Thanh có 05 loại.
Trong số 20 bộ sưu tập tiền phát hiện tại các địa điểm ở tỉnh Hà Tĩnh được Bảo tàng Hà Tĩnh sưu tầm thì có 10 bộ sưu tập có tiền Khai Nguyên Thông Bảo (開元通寶). Như vậy, cứ 2 phát hiện thì có 1 phát hiện có đồng Khai Nguyên Thông Bảo. Cho dù, đồng tiền này được đúc và có niên đại rất sớm (thế kỷ thứ 7-8) thì điều đó thể hiện đồng tiền này tập trung và xuất hiện nhiều ở Hà Tĩnh được lưu thông dưới hầu hết các triều đại phong kiến của Việt Nam.
Khai Nguyên Thông Bảo thuộc tiền cổ Trung Quốc, có đúc nổi chữ Hán gồm có cả chân thư và triện thư. Nét chữ vừa, rõ. Đường kính 2,4cm, lỗ vuông cạnh 6,5cm. Mặt trước có 4 chữ Hán đọc chéo, từ trên xuống dưới, từ phải sang trái. Hai chữ đầu ghi niên hiệu đời vua Khai Nguyên đúc tiền. Hai chữ sau ghi loại tiền lưu thông (Thông Bảo) thành chữ Khai Nguyên Thông Bảo. Còn đọc tròn theo kim đồng hồ thì thành Khai Thông Nguyên Bảo. Viền tiền rõ ràng, phân minh vừa có chức năng trang trí vừa có chức năng chống mòn. Lưng tiền để trơn, không có chữ Hán và hoa văn trang trí. Niên đại thuộc đời vua Đường Cao Tông, được bắt đầu đúc vào ngày 10 tháng 7 năm Vũ Đức thứ 4, tức ngày 2 tháng 8 năm 621 sau Công Nguyên, được lưu thông trong một khoảng thời gian rất dài, là chủ lưu tiền tệ thời Đường. Khai Nguyên Thông Bảo kế thừa hình dạng đồng tiền Bán Lượng thời nhà Tần, Ngũ Thù thời nhà Hán. Khai Nguyên là niên hiệu của Đường Huyền Tông. Khai Nguyên Thông Bảo là lấy tên này ghép với Thông Bảo để đặt tên tiền được bắt đầu đúc vào 621 sau Công Nguyên, 100 năm sau, Khai Nguyên vẫn tồn tại dưới đời vua Đường Huyền Tông (712-756). Khai Nguyên không phải là niên hiệu của Đường Cao Tông mà niên hiệu của vị vua này là Vũ Đức. Sở dĩ không lấy tên Vũ Đức Thông Bảo mà lấy Khai Nguyên Thông Bảo vì nguyên nhân là tiền ghi niên hiệu đương thời không có thị trường ví như tiền Càn Phong Thông Bảo (乹封通寶) của Đường Cao Tông. Tiền ghi niên hiệu thời nhà Đường sau này mới bắt đầu thịnh hành như đồng Vĩnh Lạc Thông Bảo (永樂通寶). Khai Nguyên nghĩa là để ghi nhớ vị vua mới bắt đầu lên ngôi. Khai Nguyên Thông Bảo không chỉ được lưu hành ở các nước lân bang như Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản, Đài Loan mà còn ảnh hướng đến những nơi xa xôi như Trung Á và Châu Âu. Đặc biệt, Việt Nam từng một thời Bắc thuộc, thời Đường là nơi đặt quản hạt An Nam đô hộ phủ nên đồng tiền Khai Nguyên Thông Bảo có điều kiện để lưu thông.
Trong mộ thuyền độc mộc ở Đồng Đẫm, xã Thiên Lộc, huyện Can Lộc, các nhà khảo cổ học thuộc Trường Đại học Khoa học, Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) và Viện Khảo cổ học Việt Nam đã tìm thấy 34 đồng tiền đều có xuất xứ Trung Quốc, trong đó có 02 đồng Khai Nguyên Thông Bảo. Ngoài ra chủ yếu là tiền thời Tống là đồ tùy táng được chông trong mộ. Cùng với đồ gốm và vỏ quan tài là thân cây khoét rỗng, các nhà khảo cổ đã xác định ngôi mộ có niên đai thời Trần (thế kỷ 13). Như vậy, tiền Khai Nguyên Thông Bảo đã được người dân Hà Tĩnh sử dụng lưu thông cách đây 7 thế kỷ. Tiền Việt Nam thời Trần không được tìm thấy. Chứng tỏ trong lưu thông tiền tệ ở Hà Tĩnh trong giai đoạn này, tiền Trung Quốc chiếm một vị trí rất quan trọng.
Tiền phát hiện ở xã Cẩm Yên, huyện Cẩm Xuyên bao gồm 50 loại, trong tiền Khai Nguyên Thông Bảo có số lượng rất lớn, chiếm vị trí thư tư về số lượng: 133 đồng, chỉ sau các đồng tiền thuộc thời Tống như Tường Phù Thông Bảo (祥符通寶) (234 đồng), Hoàng Tống Thông Bảo (皇宋通寶) (340 đồng), Nguyên Hựu Thông Bảo (元祐通寶)(166 đồng). Hũ tiền này được chôn vào thế kỷ 15. Như vậy, vào thời Lê Sơ, tiền Khai Nguyên Thông Bảo được sử dụng rất nhiều trên địa bàn Hà Tĩnh. Chứng tỏ thời kỳ này, kinh tế hàng hóa đã có bước phát triển.
Hũ tiền phát hiện ở xóm Phú Xuân, xã Hương Xuân, huyện Hương Khê có 42 loại, trong đó tiền Trung Quốc có 28 loại, tiền Việt Nam có 12 loại, tiền Nhật Bản có 2 loại. Như vậy, tiền Trung Quốc chiếm đa số, tiền Khai Nguyên Thông Bảo có 4 đồng. Hũ tiền này được chôn vào thế kỷ 18, chứng tỏ tiền Khai Nguyên Thông Bảo cũng được lưu thông trong giai đoạn này.
Hũ tiền phát hiện tại xã Cẩm Duệ, huyện Cẩm Xuyên có 55 loại, trong đó tiền Trung Quốc có 38 loại, tiền Việt Nam có 15 loại, tiền Nhật Bản có 2 loại. Tiền Khai Nguyên Thông Bảo có 17 đồng. Hũ Tiền này được chôn vào thế kỷ 19 nên có thể khẳng định tiền Khai Nguyên Thông Bảo cũng được sử dụng khá phổ biến thời Nguyễn.
Hũ tiền phát hiện ở xã Cẩm Hòa, huyện Cẩm Xuyên bao gồm 35 loại, trong đó tiền Trung Quốc 31 loại, tiền Việt Nam có 11 loại. Tiền Khai Nguyên Thông Bảo có 8 đồng. Hũ tiền không có tiền thời Nguyễn, được chôn vào cuối thế kỷ 18. Đồng tiền Khai Nguyên Thông Bảo cũng được người dân sử dụng trong thời gian này.
Hũ tiền phát hiện tại xã Vĩnh Lộc (nay là xã Khánh Vĩnh Yên), huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh gồm có 51 loại, trong đó tiền Trung Quốc 44 loại, tiền Việt Nam có 07 loại, đều là tiền thời Lê Sơ. Tiền Khai Nguyên cũng được phát hiện trong hũ tiền này với số lượng lớn nhất: 300 đồng. Hũ tiền này được chông vào thế kỷ 15. Như thế, tiền Khai Nguyên Thông Bảo được sử dụng rất nhiều trong thời kỳ Lê Sơ.
Sưu tập tiền ở xã Thạch Bình, thành phố Hà Tĩnh bao gồm 24 loại, 132 đồng, trong đó tiền Trung Quốc 23 loại, tiền Việt Nam có 01 loại. Hũ tiền này được chôn vào thế kỷ 15, cách đây khoảng 6 thế kỷ. Tiền Khai Nguyên Thông Bảo có 26 đồng, chiếm vị trí lớn nhất trong các loại tiền được phát hiện. Điều này cho thấy đồng tiền này có tầm quan trọng rất lớn và được sử dụng nhiều vào thời Lê Sơ ở nhiều địa điểm trên địa Hà Tĩnh.
Tiền cổ ở xã Hương Quang, huyện Vũ Quang có 38 loại, 1467 đồng trong đó tiền Trung Quốc chiếm phần nhiều với 36 loại, tiền Việt Nam 2 loại. Trong tiền Trung Quốc, có 26 đồng tiền Khai Nguyên thông bảo.
Tiền cổ phát hiện ở xã Thạch Tân, huyện Thạch Hà bao gồm 45 loại trong đó 28 loại tiền Trung Quốc, 15 loại tiền Việt Nam, 2 loại tiền Nhật Bản. 2 đồng Khai Nguyên Thông Bảo được tìm thấy trong bộ sưu tập này cho thấy việc sử dụng đồng tiền này ở đây không nhiều.
Tiền cổ sưu tầm ở huyện Kỳ Anh gồm có 56 loại. Tiền Trung Quốc áp đảo với 40 loại. Tiền Việt Nam 14 loại. Tiền Nhật Bản 02 loại. Trong tiền Trung Quốc cũng có tiền Khai Nguyên Thông Bảo với 22 đồng. Hũ tiền có niên đại chôn vào nửa đầu thế kỷ 20. Do đó, có thể thấy tiền Khai Nguyên Thông Bảo cũng được lưu hành nhiều trong vào đầu thế kỷ 20 ở Hà Tĩnh.
BẢNG THỐNG KÊ TIỀN KHAI NGUYÊN THÔNG BẢO Ở HÀ TĨNH
STT |
ĐỊA ĐIỂM PHÁT HIỆN, SƯU TẦM |
NĂM |
S/L (ĐỒNG) |
1 |
Xã Thiên Lộc, huyện Can Lộc |
2004 |
02 |
2 |
Xã Cẩm Yên, huyện Cẩm Xuyên |
2005 |
133 |
3 |
Xã Hương Xuân, huyện Hương Khê |
2006 |
04 |
4 |
Xã Cẩm Duệ, huyện Cẩm Xuyên |
2008 |
17 |
5 |
Xã Khánh Vĩnh Yên, huyện Can Lộc |
2008 |
300 |
6 |
Xã Cẩm Hòa, huyện Cẩm Xuyên |
2009 |
08 |
7 |
Xã Thạch Bình, thành phố Hà Tĩnh |
2016 |
26 |
8 |
Xã Hương Quang, huyện Vũ Quang |
2017 |
26 |
9 |
Xã Thạch Tân, huyện Thạch Hà |
2017 |
02 |
10 |
Huyện Kỳ Anh |
|
22 |
|
TỔNG CỘNG |
|
540 |
Qua nghiên cứu các bộ sưu tập tiền phát hiện tại Hà Tĩnh cho thấy tiền được chôn vào thời Trần, Lê và Tây Sơn thì tiền Trung Quốc luôn chiếm phần lớn, sau đó mới đến tiền Việt Nam và tiền Nhật Bản. Trong tiền Việt Nam thì tiền niên hiệu Cảnh Hưng chiếm số lượng lớn về số lượng và chủng loại. Thêm nữa, cũng có thể thấy, thời kỳ nào tiền Khai Nguyên Thông Bảo cũng được đưa vào lưu thông và sử dụng rộng rãi. Chứng tỏ dưới thời phong kiến, việc sử dụng tiền tệ không có sự phân biệt về thời vua, triều đại, quốc gia, mà tất cả chúng đều được đưa vào lưu thông. Tiền Khai Nguyên được sử dụng nhiều trải dài hơn ngàn năm qua các thời Trần, Lê, Tây Sơn, Nguyễn, cho thấy sức sống của đồng tiền này ở Hà Tĩnh trong việc phổ dụng, chất lượng, giá trị trong lưu thông tiền tệ thời phong kiến.
Trần Phi Công
Tài Liệu tham khảo
Hoàng Văn Khoán (2019), Những phát hiện tiền cổ ở Hà Tĩnh, Nxb Đại học Vinh. Phạm Quốc Quân (Chủ biên – 2005), Tiền kim loại Việt Nam, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Hà Nội, năm 2005. 中國錢古譜 (Trung Quốc tiền cổ phả), Văn Vật xuất bản xã.