Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Nhà Lê Hữu Chỉ là di tích lịch sử văn hóa cổ có niên đại trên 100 năm, tọa lạc ở Rú Cọng, trong khuôn viên rộng thoáng, thuộc xã Đức Bồng, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh. Trong cuộc khởi nghĩa Hương Khê là ngôi nhà 5 gian và một nhà ngang lợp tranh, nay được tu bổ, tôn tạo lại thành ngôi nhà 3 gian lợp ngói máy, xung quanh được bao bọc bởi các di tích cùng thời như Rú Kho, Rú Cồi, đồng Nhà Ngâm, khe Mụ Tra, Chọ Cất Đạn, Nhà Nho Bãi Tập, đền Phùng. Nhà Lê Hữu Chỉ ngoảnh mặt về hướng Tây lệch Bắc là một công trình kiến trúc gỗ dân gian, diện tích mặt bằng 48m2 (8m x 6m) chia làm 3 gian, 2 hiên hồi (gian giữa 2,60m x 6m = 15,60m2, hai gian bên mỗi gian 1,80m x 6m = 10,80m2), hai hiên hồi mỗi hiên 0,90m x 6m = 5,4m2), 4 vì với 12 bẩy hiên, 20 cột gỗ tròn, trong đó có 6 cột cái, đường kính 0,22m, cao 3,60m, 8 cột quân đường kính 0,21m, cao 2,7m, 4 cột hiên đường kính 0,19m, cao 2,20m, 2 cột trốn đường kính 0,21m, cao 0,90m. Liên kết chiều ngang: Nhà có 2 kiểu vì: cốn mê (vì gian hai bên) và giá chiêng, rường cụt (bộ vì gian giữa). Các vì được cấu tạo theo kiểu giá chiêng rường cụt (bộ vì gian giữa). Các vì này là kiểu kết cấu vì truyền thống thuộc loại sớm. Bộ vì này dựa trên kết cấu với 5 hàng chân cột, trên đỉnh vì là một xà nóc – thượng lương. Xà này tì lực vào con rường ngắn, cong lên phía trên (rường bụng lợn) gối lên hai cột trốn. Hai đầu rường đỡ các hoành mái. Hai cột trốn đứng trên quá giang mập, khỏe, ăn mộng vào đầu cột cái. Hai bên hai cột trốn là hai rường cụt ăn mộng vào. Đầu rường cụt đỡ hoành mái. Về hình thức, kết cấu này tương tự như giá treo chiêng, khánh, trống. Vì nách kiểu rường cụt, cột trốn. Vì nách là cách liên kết các cấu kiện ở khoảng không có hình tam giác vuông tạo thành giữa cột cái (hay cột trốn), cột quân và cạnh huyền là mái. Thay vì dùng kẻ ngồi, khoảng tam giác vuông ở đây được lấp bởi 2 rường cụt. Một đầu gối lên đầu cột trốn, một đầu ăn mộng vào cột cái (hoặc cột trốn). Một rường khác gối lên đầu cột trốn thấp hơn, một đầu ăn mộng vào cột trốn khác, phía trên tạo gờ đỡ lấy hoành mái. Phía sau là vì hiên: cấu tạo theo kiểu rường cụt cột trốn như vì nách khảo tả ở trên. Bộ vì các gian bên kích thước như bộ vì gian giữa nhưng khác nhau về kết cấu vì kèo. Ở đây được tạo theo kiểu vì cốn mê, tức các tấm gỗ dày chồng khít lên nhau đỡ lấy hoành mái. Trên bề măt cốn mê được chạm khắc các mô típ hoa văn trang trí truyền thống. Liên kết chiều dọc: Các xà dọc tiết diện 0,20m x 0,10m ăn mộng qua cột cái và cột quân liên kết các bộ vì lại với nhau tạo nên bộ khung chịu lực vững chắc cho toàn bộ ngôi nhà. Nhìn chung trên các cấu kiện của di tích, các mô típ hoa văn trang trí rất ít.
Hệ mái ngôi nhà hiện nay được cấu thành bởi ngói máy đất nung, rui, mèn và hoành. Các hoành được đặt trên đầu rường và đầu cột theo chiều dọc ngôi nhà. Các rui tiết diện 0,04m x 0,04m đặt đều nhau khoảng cách 0,40m vuông góc với hoành. Các mèn tiết diện 0,03m x 0,03m lại được đặt trên và vuông góc với rui khoảng cách đều nhau đủ để ngoắc những viên ngói lên trên.
Nhà Lê Hữu Chỉ
Tứ phía nhà Lê Hữu Chỉ ốp ván bao quanh chủ yếu có công dụng che chắn. Mặt tiền trổ cửa chính kiểu bức mành. Ba phía còn lại cũng có trổ cửa thoát hiểm, xung quanh đào hào thoát hiểm, có thể rút lui nhanh chóng, an toàn, phòng trường hợp tập kích bất ngờ. Nhà được bố trí giá sách, bàn, ghế, tủ, bục, giường… để Phan Đình Phùng sử dụng trong thời gian ở đây. Bảo vệ trung tâm vòng trong là đội cận vệ tinh nhuệ gồm 20 trai tráng trung thành, khỏe mạnh, trang bị súng ống đầy đủ do Nguyễn Mục chỉ huy, túc trực ngày đêm. Vòng ngoài là đội quân khoảng 300 nghĩa sĩ chủ lực do Cao Thắng trực tiếp chỉ huy tại Rú Cọng. Nghĩa quân đều được trang bị gươm, giáo, súng hỏa mai, súng Tây kiểu 1874 tự chế, ăn mặc quần áo đen hoặc nâu, thắt lưng xanh, đội nón bằng nhỏ, từ hiệp quản trở lên thì quần áo màu đỏ. Các đội quân đều được luyện tập kỷ càng, kỷ luật nghiêm[1].
Lê Hữu Chỉ thuộc chi đệ tam của dòng họ Lê - Thượng Bồng. Dòng họ này ở thôn Phù Dĩ, xã Bất Quần, huyện Lôi Dương (Thiệu Hoá, Thanh Hóa) vào Châu Diễn, Nghệ An rồi lên đất La Bồng (sau này là Thượng Bồng) đến nay có đến 19 đời. Đến cuối thế kỷ 19, cùng với nhân dân các tỉnh Thanh – Nghệ - Tĩnh – Bình, xã Thượng Bồng và các xã lân cận: Hạ Bồng, Yên Duệ, Phương Duệ, Lệ Động, Hòa Duyệt… dòng họ Lê – Thượng Bồng có nhiều người tham gia cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo. Lúc này, Cao Thắng chuyển từ căn cứ Cồn Chùa về căn cứ Thượng - Hạ Bồng nơi có “địa lợi – nhân hòa” để đóng quân. Đầu năm 1889, Cao Thắng đến Thượng Bồng liên hệ với lý trưởng Lê Lung (Lý Tiêm), một người trong dòng họ Lê – Thượng Bồng. Là chức dịch dưới bảo hộ của thực dân Pháp, ông hiểu cảnh lầm than của người dân mất nước, quan lại cũng chỉ là tay sai và chờ cơ hội đánh đuổi giặc Pháp. Khi Cao Thắng đến đề nghị đóng quân trên địa bàn, ông đồng tình ủng hộ, hợp tác với nghĩa quân, tuy bề ngoài tỏ vẻ trung thành với chính phủ bảo hộ. Ông bố trí Cao Thắng và em ruột Lê Đình Yên tại Rú Cồi và cho Cao Thắng bố trị hệ thống đồn bốt, chỗ đóng quân, kho tàng và lò rèn tùy ý bất kỳ đâu trên địa bàn xã Thượng Bồng.
Đến tháng 9 năm 1889, Phan Đình Phùng từ Bắc về lãnh đạo cuộc khởi nghĩa tại căn cứ Thượng – Hạ Bồng. Tại đây, được sự đồng ý của lý trưởng Lê Lung, Phan Đình Phùng được bố trí nơi ở và làm việc tại nhà Lê Hữu Chỉ ở Rú Cọng. Lê Hữu Chỉ là người khá khá dã so với người dân trong vùng, có học thức, lại có tinh thần yêu nước. Khi Phan Đình Phùng thấy Rú Cọng có vị trí thuận lợi, an toàn để đóng đại bộ chỉ huy, ông lấy làm hài lòng và sẵn sàng dọn nhà mình làm nơi ở và làm việc cho Phan Đình Phùng. Hành động này đối với ông như một đóng góp có ích cho cuộc khởi nghĩa. Từ đây, ông trở thành thư ký, phục vụ Phan Đình Phùng. Tại đây, với danh nghĩa Tán Lý Quân Vụ đại thần, Phan Đình Phùng hội các tướng trong khu căn cứ bàn bạc và quyết định chia lực lượng nghĩa quân 4 tỉnh thành 15 thứ quân trong đó, Thanh Hóa có 1, Nghệ An 2, Quảng Bình 03, Hà Tĩnh 10. Mỗi quân thứ tùy theo binh sĩ nhiều hay ít mà có một đề đốc hay một lãnh binh chỉ huy. Cao Thắng được phong chức Chưởng vệ, chỉ huy lực lượng nghĩa quân 4 tỉnh, dưới quyền lãnh đạo của Phan Đình Phùng. Mỗi quân thứ chuyển về đây một đội nghĩa binh khỏe mạnh, thông thạo đường sá để khi cần chuyển lệnh kịp thời. Phan Đình Phùng và Cao Thắng không những thống nhất được các lực lượng chống Pháp cả 4 tỉnh: Thanh – Nghệ - Tĩnh – Bình về danh nghĩa mà về tất cả các mặt cụ thể khác như chỉ huy, kỷ luật trong quân đội…
Để hoàn thiện căn cứ, dưới sự chỉ đạo của Phan Đình Phùng, Cao Thắng tập trung xây dựng hoàn chỉnh hệ thống giao thông, liên lạc, lò rèn, bãi tập, kho tàng thuận tiện cho việc phòng thủ và là nơi xuất phát tấn công xuống đồng bằng.
Đường giao thông từ sở chỉ huy đi các nơi như sau:
Từ Rú Cồi, Rú Cọng đi Động Dài qua lối Rõ vào khe Nác Lội, qua Hói Cồng và Hói Trùng, Hói Trí đi lên Kẻ Nắng vào Nầm Chạn đến Vũ Quang. Đường đi rất khó khăn qua nhiều thác nước, ghềnh đá và rừng rậm. Từ Rú Cồi, Rú Cọng đi qua Cồn Chọ Đón, qua Bàu Cho đến Cồn Đồng Nãi, sang Đò Đồng Văn, sang Yên Duệ đi ngược lên Lâm Thao, Hòa Duyệt và về Du Đồng, Trãi Cốc. Từ Rú Cồi, Rú Cọng đi Mũi Điểm đếnTrọt Cơm Xiềng, qua Cầu Chông, về Rú Trền, vào Lệ Động, Hạ Bồng.
Tóm lại, các đường ấy trước đây là rừng đại ngàn chỉ có lối đi nhỏ bé. Cũng những con đường ấy, nghĩa quân Phan Đình Phùng hành quân tiến quân địch khắp nơi.
Cùng với hệ thống giao thông là những cụm lò rèn vũ khí. Cụm lò rèn Rú Cồi (Khôi Sơn), Rú Cọng (Điếm Sơn), Rú Sui, khe Nhà Trận… có hàng trăm thợ do ông Phó Bích làm Hiệp quản chỉ huy. Cụm lò rèn Mò O, làng Lệ Động nằm sâu trong rừng rậm là khu lò rèn lớn có đến 30 gian lán trại, thường xuyên có 200 – 300 thợ thay nhau làm việc suốt ngày đêm. Ngoài ra, lò rèn còn đặt ở một số nơi khác như ở núi Đồ Hố (Đức Liên), Khe Tủ, Mũi Đồn. Ngoài các kho lương đặt gần các đồn lính, đồn rèn như ở Rú Kho (nay là xóm 2, Bồng Thượng), núi Mò O (Đức Lĩnh), Cao Thắng còn thiết lập các kho thóc, kho muối dự trữ ở phía nam sông Ngàn Trươi, trong vùng rừng núi Vụ Quang phòng khi cần đến.
Nhằm sớm dập tắt cuộc khởi nghĩa, thực dân Pháp kết hợp chặt chẽ tấn công quân sự với nhiều biện pháp chính trị như mua chuộc, dụ hàng và tìm cách ly khai nhân dân với nghĩa quân. Ở những nơi nghĩa quân hoạt động mạnh như vùng rừng núi các huyện Hương Sơn, Vũ Quang, Đức Thọ, chúng bắt nhân dân phải rào làng, hàng rào này gọi là “dè phân ly” chạy suốt từ làng này sang làng khác, phía ngoài đào hào sâu, dưới cắm chông tre, mỗi làng chỉ trừ hai cổng ra vào, sáng chiều ra đồng hay về nhà, dân làng phải nhất nhất theo hiệu trống. Ban đêm, chánh tổng, lý trưởng phải đôn đốc tuân phu canh gác, hễ bắt được ai tiếp tế cho nghĩa quân thì chẳng những người đó bị bắn mà hương lý cũng phải chịu tội. Để tăng cường lực lượng đàn áp, chúng đóng đồn Xuân Trì (Sơn Lễ), chợ Bộng (Đức Bồng).
Năm 1890, bọn địch phát hiện thấy Phan Đình Phùng ở Rú Cọng nên chúng cho bọn thám báo rình mò và bao vây các nẻo đường nhưng chúng chưa bao giờ và được căn cứ trước sự cảnh giác của nghĩa quân. Trước tình hình bị bao vây, Phan Đình Phùng cho chuyển một bộ phận lên căn cứ Hói Trùng - Hói Trí. Trước khi chuyển đi, Phan Đình Phùng dặn các gia đình có người đi tiếp tế, cung cấp binh lương và các gia đình cho nghĩa quân đóng quân, nhất là nhà Lê Hữu Chỉ, Lê Đình Yên và Lê Lung phải tháo nhà cất dấu và lánh đi khỏi nơi khác tránh bị giặc phá sách, đốt sạch và giết sạch. Trước tình hình đó, Lê Hữu Chỉ đã cho tháo nhà đưa xuống Hạ Trà ngâm. Gia đình Lê Hữu Chỉ trốn đi xa nên địch không thể bắt được. Các gia đình không kịp tháo giở đều bị đốt, phá. Những người tham gia ủng hộ nghĩa quân không kịp chạy trốn đều bị bắt trong đó có gia đình lý trưởng Lê Lung.
Chú thích:
[1] Theo cuốn “Vũ Quang xưa và nay”, Huyện ủy, UBND huyện Vũ Quang, năm 2005, tr.64.