Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Di tích Đền Phú Sơn là di sản văn hóa vật thể gắn với nhiều giá trị di sản văn hóa phi vật thể của cộng đồng cư dân nông nghiệp lúa nước xã Tượng Sơn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Từ khi ra đời vào đầu thời Nguyễn cho đến nay, di tích còn giữ được nhiều yếu tố gốc trong đó phải kế đến kiến trúc nghệ thuật của ngôi đền. Đây là nơi chứng kiến biết bao lịch sử thăng trầm của địa phương, là nơi lui tới của nhiều tầng lớp nhân dân đến đây chiêm bái các vị thần và là nơi vãn cảnh hữu tình của một vùng quê thôn dã. Việc thờ cúng các vị thần Tam Lang và thần Nông ở Đền Phú Sơn là tín ngưỡng khá phổ biến, phù hợp với điều kiện lịch sử tự nhiên và xã hội của địa phương.
Đền Phú Sơn, phía trước có sông Rào Cái (còn gọi là sông Hoàng Hà), là dòng sông hội tụ của hàng trăm khe suối từ dãy Trà sơn đổ về. Rào Cái là một trong những con sông lớn của Thạch Hà và Hà Tĩnh. Sông bắt nguồn từ vùng rừng núi phía tây Cẩm Xuyên tiếp giáp với Hương Khê đổ về theo hướng Bắc đi giữa Cẩm Xuyên và Thạch Hà qua Thạch Tân, Đại Nài, vòng qua thành phố Hà Tĩnh đến cầu Đò Hà, xuống Đồng Môn, Thạch Khê, Thạch Đỉnh, đổ vào sông Hộ Độ ở ngã ba Sơn chảy ra Cửa Sót. Hiện nay, sông có nhiều đoạn làm ranh giới tự nhiên giữa Thạch Hà với Cẩm Xuyên, giữa Thạch Hà với thành Phố Hà Tĩnh.
Đền Phú Sơn
Kiến trúc nghệ thuật của Đền Phú Sơn là sản phẩm của bàn tay tài hoa những người thợ nề dân gian Đình Hòe, xã Kiều Mộc, tổng Hạ Nhị xưa, nay thuộc xã Đỉnh Bàn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Di tích chứa đựng nhiều yếu tố kiến thức, kinh nghiệm truyền thống trong việc xây dựng các công trình tín ngưỡng, tôn giáo tiêu biểu ở vùng biển ngang huyện Thạch Hà đã được tích lũy, bồi đắp từ hàng trăm năm. Hiện tại, tuy di tích còn trong tình trạng bị xuống cấp nhưng vẫn còn giữ được khá nguyên vẹn các yếu tố gốc được hình thành qua thời gian và mang dấu ấn lịch sử, văn hóa của thời đại sinh ra chúng mà chưa có sự can thiệp của công nghệ xây dựng hiện đại.
Trước hết, về mặt bằng tổng thể, di tích được bố trí trên một nên đất khá cao, bằng phẳng và thoáng đãng, hướng thủy ra dòng sông Rào Cái, xa xa phía sau là núi Tượng Sơn án ngự nên rất hợp với phong thủy của một công trình tín ngưỡng truyền thống. Các đơn nguyên kiến trúc được bố trí đăng đối trên trục thần đạo, từ ngoài vào trong theo lối chữ Nhị (二) với nghi môn, sân đền, hạ điện và thượng điện.
Thứ hai, về kiến trúc, nghi môn, hạ điện, thượng điện là những công trình có kích thước vừa phải, hài hòa và không có sự xung đột lẫn nhau, cái này lấn át cái kia. Khoảng cách giữa chúng cũng phù hợp, tạo điều kiện cho từng đơn nguyên phát huy hết công năng. Trong đó, nghi môn là một điểm nhấn với kiểu kiến trúc hai tầng cửa vòm, thượng thu, hạ thách, vừa có tính mỹ thuật, vừa tạo sự vững chãi. Nghi môn có một vị trí rất quan trọng bởi theo quan niệm truyền thống, việc hành lễ đi từ ngoài qua nghi môn vào trong không gian đền nghĩa là chuyển từ không gian trần tục sang không gian thiêng của thế giới thần linh. Hạ điện là công trình mang phong cách cuối Lê đầu Nguyễn. Khác với các công trình Thiên Chúa giáo có kiểu kiến trúc gô - tích phát triển thiên về chiều cao thì các công trình đình, đền, miếu mạo ở Hà Tĩnh nói chung và hạ điện, thượng điện của Đền Phú Sơn nói riêng có độ cao vừa phải, nhưng lại phát triển thiên về chiều rộng, mở ra xung quanh, hòa hợp với môi trường, cảnh quan tạo nên cảm giác ấm cúng khi đến tham quan, chiêm bái. Bộ vì hạ điện là kiểu vì kẻ. Đây là kiểu vì phổ biến bằng gỗ cũng như bằng bê tông của các công trình tín ngưỡng ở trên địa bàn Hà Tĩnh. Tuy nhiên so với bộ vì chồng dường hay giá chiêng thì kiểu vì kẻ này có niên đại sớm hơn khi làm bằng chất liệu tre và muộn hơn khi làm bằng chất liệu gỗ và bê tông.
Thứ ba, về trang trí trên kiến trúc, Đền Phú Sơn là công trình kiến trúc tín ngưỡng được trang trí nhiều đề tài truyền thống mang dấu ấn nghệ thuật dân gian của người thợ nề Đình Hòe. Các hoa văn trang trí hiện diện ở hầu hết các đơn nguyên kiến trúc. Ở mỗi đơn nguyên, các mảng trang trí cũng được bố trí khắp nơi trên bề mặt như ở các đầu đao, thượng ốc, kết cấu kiến trúc, hai đầu vĩ ruồi, mặt trước nghi môn, hạ điện và thượng điện. Các đề tài chủ yếu là rồng, phượng, hổ phù, kìm nguýnh (lạc long thủy quái), hoa lá cách điệu, các đường diềm, phao chỉ... Các hoa văn này được đắp công phu, có hồn, mang nhiều biểu cảm sinh động vừa tạo tính thẩm mỹ cao, vừa làm tăng tính thiêng cho di tích. Tuy nhiên, trải qua biến thiên của lịch sử và một thời gian bị lãng quên, di tích Đền Phú Sơn đã bị xuống cấp, nhiều chi tiết trang trí hiện nay đã bị phá hủy.
Thứ tư, về vật liệu xây dựng, kiến trúc nghệ thuật của Đền Phú Sơn là sản phẩm của nghề thờ nề nên vật liệu hoàn toàn bằng bê tông vữa tam hợp (vôi hàu, mật mía, cát), gạch đất nung, đá, không có sự tham gia của vật liệu bằng gỗ. Đây là đặc điểm chung của nhiều di tích vùng biển ngang Thạch Hà giống như Miếu Ao, Đền Cả (xã Thạch Trị), Đền Sắc (xã Thạch Lạc), Đền Tam Lang (xã Thạch Hải), Nhà thờ Đồng Văn Năng (xã Thạch Khê), Miếu Trửa, Đền Văn Sơn (xã Thạch Đỉnh) ... Lý giải cho điều này là do các di tích ở đây nằm ở đồng bằng ven biển, xa rừng núi nên ít có vật liệu gỗ để xây dựng. Ngoài ra, việc xây dựng di tích bằng bê tông sẽ giảm thiểu việc xuống cấp theo thời gian so với làm bằng chất liệu gỗ ở vùng khí hậu nhiệt đới, gió mùa, nóng ẩm, mưa nhiều. Thứ nữa, nơi đây có nghề thợ nề Đình Hòe nổi tiếng làm nhà ở và di tích đẹp nên các di tích ở đây thường làm bằng bê tông.
Thứ năm về niên đại, hiện tại, chúng ta chưa thấy ở Đền Phú Sơn có dòng lạc khoản chữ Hán nào ghi lại niên đại tạo dựng và trùng tu di tích. Tuy nhiên, qua nghiên cứu về phượng diện khảo cổ học đã mở ra sự hiểu biết về niên đại của nó. Dựa vào hoa văn trang trí và kỹ thuật trang trí thì nhiều chi tiết, đề tài trang trí của Đền Phú Sơn được trang trí bằng cách dán các mảnh gốm hoa lam vỡ của bát hay đĩa. Các mảnh gốm này có xuất xứ Trung Quốc, niên đại vào khoảng thế cuối thế kỷ 18. Vả lại, kỹ thuật dán gốm này chỉ xuất hiện vào thời cuối Lê đầu Nguyễn và phát triển, phổ biến vào thời Nguyễn mà tiêu biểu là trên các mảng trang trí của các kiến trúc cung đình, lăng tẩm thời triều Nguyễn ở Huế. Từ đó, chúng ta khẳng định rằng Đền Phú Sơn hiện tại có niên đại xây dựng vào cuối Lê, đầu Nguyễn.
Tóm lại, Đền Phú Sơn là di tích cổ có nhiều giá trị về kiến trúc nghệ thuật cần được bảo vệ, tu bổ và tôn tạo trên cơ sở tôn trọng các yếu tố gốc cấu thành di tích, đặc biệt là khi di tích đang bị xuống cấp như hiện nay./.