Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Theo gia phả, sắc phong còn lưu giữ tại nhà thờ họ Trần Năng cho biết, Trần Năng Chinh là thất thế Tổ của dòng họ Trần Năng, tại làng Phú Sơn, xã Hoàng Hà, tổng Hạ Nhất, phủ Thạch Hà, nay là thôn Bắc Bình, xã Tượng Sơn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
Ông sinh vào năm Tân Dậu (1741) niên hiệu Cảnh Hưng thứ 2 và lớn lên trong giai đoạn lịch sử đầy biến động, khi mà lãnh thổ đất nước chia làm hai miền: Đàng Trong với sự quản lý của các chúa Nguyễn và Đàng Ngoài với sự quản lý của chính quyền vua Lê - chúa Trịnh. Trong giai đoạn rối ren này, nhiều cuộc chiến tranh Đàng Trong- Đàng Ngoài nổ ra làm cho chính quyền vua Lê – chúa Trịnh suy giảm vai trò quản lý dẫn đến nhiều cuộc nổi dậy chống phá của các băng đảng thổ phỉ ở vùng biên, hay sự bất thần phục, triều cống của một số vùng đất biên viễn và cả những cuộc khởi nghĩa nông dân… Điều này buộc chính quyền trung ương phải tăng cường đội quân thường trực mạnh nhằm ổn định tình hình. Đạo Nghệ An (bao gồm cả Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay) cùng với đạo Thanh Hoa là vùng đất căn bản của các đời vua Lê và chúa Trịnh. Vì thế, chỉ có lực lượng quân sỹ nơi đây được tuyển chọn để phiên chế vào đội quân túc vệ, chuyên làm nhiệm vụ bảo vệ cung vua, phủ chúa. Trần Năng Chinh là một trong những thanh niên làng quê Tượng Sơn đã được tuyển vào hàng ngũ quân đội nhà Lê và được biên chế vào đội quan túc vệ, làm lính ưu binh ở đội Trung tả tượng. Trong suốt thời gian phục vụ trong quân đội, Trần Năng Chinh chủ yếu phục vụ trong đội quân Tượng binh, phiên chế thuộc đội trung tả tượng; tham gia nhiều cuộc chinh chiến trận mạc, lập nhiều chiến công, sau một thời gian, ông đã được thăng chức Đội trưởng (Theo binh chế dưới thời Cảnh Hưng, cơ Tả tượng là đội quân có khoảng 300 người. Đội trưởng là chức võ quan chỉ huy đội quân 50 người, hàm Chánh thất phẩm), đội quân tượng binh cùng với kỵ binh, được xem là lực lượng tinh nhuệ, có nhiệm vụ tiên phong trong các cuộc giáp chiến, xông pha vào giữa đội hình kẻ địch nhằm đánh phá, giày xéo, phá vỡ thế trận để mở đường cho các lực lượng khác tiến lên. Mặt khác, đội tượng binh còn quan trọng ở chỗ, ngồi trên các thớt voi này thường là những vị tướng chỉ huy.
Sắc phong niên hiệu Cảnh Hưng cho Trần Năng Chinh
Với vai trò, nhiệm vụ được giao, Trần Năng Chinh liên tục tham gia nhiều trận đánh với các thế lực chống lại triều đình, ổn định cuộc sống của nhân dân tại các vùng Thanh – Nghệ Tĩnh và các vùng biên cương. Tháng 6 năm 1767, ông theo Đốc trấn Nghệ An Bùi Thế Đạt, tiến đến Hương Sơn (Hà Tĩnh), nhiều lần đánh bại quân Lê Duy Mật (Lê Duy Mật là thủ lĩnh một cuộc khởi nghĩa lớn chống lại chúa Trịnh vào giữa thế kỷ 18; Ông là hoàng thân nhà Hậu Lê, con thứ vua Lê Dụ Tông (1705-1729)).và bắt sống được Côn quận công của địch. Từ tháng 7 năm 1769 đến tháng 01 năm 1770, ông phụng theo Bùi Thế Đạt tiến đánh Trấn Ninh và đã tiêu diệt hoàn toàn căn cứ Lê Duy Mật ở Trấn Ninh. Buộc Lê Duy Mật tự thiêu mà chết. Sau những lần tham gia đánh Trấn Ninh, Trần Năng Chinh được thăng từ chức đội trưởng lên “Bách hộ Thị hầu Trung tả tượng” (chức võ quan giám sát đội quân tả tượng 120 người, trật Chánh lục phẩm), hàm “Phấn lực tướng quân”. Nội dung sắc phong:
Phiên âm:
Sắc Thạch Hà huyện, Hoàng Hà xã, Trần Năng Chinh, vị dĩ Trung tả tượng đội Ưu binh đội trưởng, bản thân thuộc tùy Nghệ An đạo Thống lĩnh quan Đại tư đồ Đoan Quận công tiến thảo sơn khấu, nỗ lực trận tiền, đảo phá Trấn Ninh tặc sào, phả hữu công tích, dĩ kinh chỉ chuẩn ưng Bách hộ chức, khả vi Phấn lực tướng quân Hiệu lệnh ti Tráng sĩ, Bách hộ, Hạ trật. Cố sắc!
Cảnh Hưng tam thập lục niên, bát nguyệt, thập nhị nhật.
Dịch nghĩa:
Sắc cho Trần Năng Chinh ở xã Hoàng Hà, huyện Thạch Hà, vì là Đội trưởng Ưu binh ở đội Trung tả tượng, bản thân luôn theo quan Thống lĩnh đạo Nghệ An là Đại tư đồ Đoan Quận công [Bùi Thế Đạt] tiến đánh giặc núi, nỗ lực trước trận, công phá ổ giặc ở Trấn Ninh [do Lê Duy Mật cầm đầu], khá có công lao, đã có chỉ ưng chuẩn thăng chức Bách hộ, vậy đáng được thăng làm Phấn lực tướng quân, Tráng sĩ ti Hiệu lệnh, Bách hộ, Hạ trật. Vì vậy ban sắc!
Ngày 12, tháng 8, năm Cảnh Hưng thứ 36 (1775).
[Ấn] Sắc Mệnh Chi Bảo.
Năm 1775, Trần Năng Chinh nhận lệnh hành quân theo phụng Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc tiến đánh đạo Thuận Quảng của Đàng Trong, mở mang đất đai Bắc Hà đến Quảng Nam. Trong cuộc hành binh này, Trần Năng Chinh cùng với đội tượng binh tiếp tục lập nhiều công tích, được vua Lê Hiển Tông ban sắc phong, thăng chức Phó thiên hộ (trật Chánh ngũ phẩm), hàm “Tráng tiết tướng quân”. Nội dung sắc phong:
Phiên âm:
Sắc Phấn lực tướng quân Hiệu lệnh ti Tráng sĩ Bách hộ Hạ trật Trần Năng Chinh, vị dĩ Trung tả tượng đội tùy phụng sai Bình Nam Thượng tướng quân Quốc lão tiền Việp công tiến chinh Thuận Quảng đạo, phả hữu công tích, dĩ kinh chỉ chuẩn ưng thăng Phó thiên hộ chức, khả vi Tráng tiết tướng quân Hiệu lệnh ti Tráng sĩ, Phó thiên hộ, Trung liệt. Cố sắc!
Cảnh Hưng tứ thập nhất niên, thập nguyệt, sơ lục nhật.
[Ấn] Sắc Mệnh Chi Bảo.
Dịch nghĩa:
Sắc cho Phấn lực tướng quân Hiệu lệnh ti Tráng sĩ Bách hộ Hạ trật Trần Năng Chinh, vì làm tùy phụng (theo hầu mệnh) ở đội Trung tả tượng, vâng mệnh theo Bình Nam Thượng tướng quân Quốc lão tiền Việp công tiến đánh đạo Thuận Quảng, khá có công lao, đã có chỉ ưng chuẩn thăng chức Phó thiên hộ. Vậy đáng thăng làm Tráng tiết tướng quân, Tráng sĩ ti Hiệu lệnh, Phó thiên hộ, Trung liệt. Vì vậy ban sắc!
Ngày mùng 6 tháng 10 năm Cảnh Hưng thứ 41 (1780).
[Ấn] Sắc Mệnh Chi Bảo.
Năm Nhâm Dần triều vua Cảnh Hưng năm thứ 43 (1782) diễn ra sự kiện chúa Trịnh Sâm mất, Tuyên phi Đặng Thị Huệ liên kết với Huy quận công Hoàng Đình Bảo lập con thứ là Trịnh Cán lên làm chúa. Đặng Thị Huệ vốn được sự sủng ái của tiên chúa nên lợi dụng “…ton hót cướp ngôi của thế tử cho con mình, nên lòng người không phục”. Con trưởng Trịnh Sâm là Trịnh Tông mưu với quân tam phủ để tranh ngôi, phế bỏ Trịnh Cán xuống làm Cung quốc công. Sau khi lên ngôi chúa, Trịnh Tông xét công ban thưởng chức tước cho quan quân đã có công tôn phù, cấp bậc khác nhau. Trần Năng Chinh nhờ công lao suy tôn chúa, bảo vệ triều chính, được vua Lê Hiển Tông ban sắc phong, thăng chức Thiên hộ Thiêm tổng tri và Đồng tổng tri, hàm tản quan “Hoài viễn Tướng quân” Thủ ngự Tổng tri Kiêu kỵ úy Đồng tổng tri Trung tự. Theo tổ chức quân đội thời Lê trung hưng, Thiêm Tổng tri và Đồng Tổng tri là hai quan phụ tá cho quan Tổng tri (tức Tổng binh Đồng tri – chức quan đứng đầu một Vệ thuộc Đô ty, trật Tòng tam phẩm. Các Đô ty này dưới sự chỉ huy của một trong 5 phủ quân là: Trung quân, Bắc quân, Nam quân, Tây quân và Đông quân). Thiêm Tổng tri là chức võ quan phụ trách việc văn thư, hành chính trong Vệ, trật Tòng tứ phẩm. Đồng Tổng tri là chức võ quan phụ trách việc binh bị trong Vệ (hàng tứ phẩm). Xét theo quy định thời kỳ này, quan lại Tứ phẩm được xếp vào hàng quan đại thần. Nội dung sắc phong:
Phiên âm:
Sắc Thạch Hà huyện, Hoàng Hà xã Phó thiên hộ Trần Năng Chinh, vị dĩ Thị hầu Trung tả Tượng đội Ưu binh, Nhâm Dần niên đồng dữ nội ngoại chư quân dực đới hữu công, dĩ kinh chỉ chuẩn ưng thăng chức nhị thứ, tái gia ban thăng chức nhất thứ, tính thụ Thiên hộ Thiêm tổng tri Đồng tổng tri đẳng chức, khả vi Hoài viễn tướng quân Thủ ngự Tổng tri ti Kiêu kị úy Đồng tổng tri, Trung tự. Cố sắc!
Cảnh Hưng tứ thập tứ niên, nhị nguyệt, nhị thập lục nhật.
[Ấn] Sắc Mệnh Chi Bảo.
Dịch nghĩa:
Sắc cho Phó thiên hộ Trần Năng Chinh ở xã Hoàng Hà, huyện Thạch Hà, vì là Ưu binh theo làm việc ở đội Trung tả tượng, vào năm Nhâm Dần đã cùng với các quân trong ngoài lập được công lao, nên đã có chỉ ưng chuẩn thăng chức 2 bậc, lại được gia ơn thăng chức thêm 1 bậc, gộp cả được nhận các chức Thiên hộ Thiêm tổng tri Đồng tổng tri. Vậy đáng thăng làm Hoài viễn tướng quân Thủ ngự Tổng tri ti Kiêu kị úy Đồng tổng tri, Trung tự. Vì vậy ban sắc!
Ngày 26 tháng 2 năm Cảnh Hưng thứ 44 (1783).
[Ấn] Sắc Mệnh Chi Bảo.
Tiếc rằng, lịch sử dân tộc giai đoạn này có sự biến động mạnh, chính quyền phong kiến Lê - Trịnh sụp đổ, vương triều Tây Sơn tiếp nối, cho nên sự nghiệp, hành trạng nhiều văn thần võ tướng của triều đại cũ không còn được nhắc tới, trong đó có Đồng Tổng tri Trần Năng Chinh. Theo gia phả dòng họ, ông mất ngày 03 tháng 6 năm Quý Dậu (1813), hưởng thọ 73 tuổi, mộ táng tại nghĩa trang Cu Cu, xã Tượng Sơn ngày nay. Hiện ông được thờ tại nhà thờ họ Trần Năng. Nhân dân xã Tượng Sơn còn rước bài vị của ông về thờ tự tại đền làng Phú Sơn xưa, thôn Bắc Bình ngày nay. /.