Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Dòng họ Nguyễn Hữu ở thôn Nam Trị, xã Chỉ Châu, tổng Hạ Nhất, đạo Thạch Hà (nay là xóm Thanh Sơn, xã Thạch Lạc, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh) vốn là dòng họ nổi tiếng với nhiều người theo nghề thợ bạc.
Nam Trị xưa (theo bản đồ hành chính thời thuộc Pháp) gồm hầu hết vùng đất xã Thạch Trị và một phần xã Thạch Lạc bây giờ vốn nổi tiếng với nghề chạm bạc. Người Nam Trị có câu ca:
“Anh đi làm thợ trăm quê
Mùa xuân đánh nhẫn mang về cho em.”
Nhưng nghề chạm bạc Nam Trị xuất hiện vào thời gian nào, ai là ông tổ truyền nghề đầu tiên thì cũng chỉ mới là giả thiết. “Chỉ biết Nam Trị xưa nghèo lắm. Làng nằm gối đầu trên động cát trắng chạy song song với biển. Cảnh đói nghèo có thể thấy ngay qua những động cát trắng bạc màu, những ruộng lúa, nương khoai cằn cỗi đâm rễ vào dãi đất chua phèn. Hàng năm bão lụt, sóng thần lại nhiều. Nhà cửa bị cuốn trôi, con người sống cảnh cháo rau qua ngày. Họ bỏ làng đi tha phương cầu thực, kiếm nghề sinh nhai và một trong những nghề đem lại vẻ vang cho Nam Trị về sau là nghề kim hoàn. Cụ Phạm Viết Dụ kể lại: Nghề thợ bạc Nam Trị do một người thuộc dòng họ Phạm Viết, vì đói quá phải bỏ làng tới đất Nam Định. Ngày nọ nối ngày kia, ông phải sống bằng công việc gánh nước thuê và thổi bễ cho một ông chủ kim hoàn người Hoa. Do có chí cao, ông mất trên chục năm mới thông thạo những bí quyết của nghề thợ bạc. Rồi ông mang về quê truyền lại cho con cháu trong họ mình. Nghề thợ bạc ở Nam Trị có từ ngày đó. Từ dòng họ Phạm Viết hành nghề đầu tiên ở đất này, dần dần nghề kim hoàn lan ra các dòng họ Hồ, Trần, Dương, Nguyễn…”[1]
Đối với bất kỳ nghề thủ công nào, người thợ cũng cần có đôi bàn tay khéo léo, có óc sáng tạo và nết làm ăn cần cù chịu thương chịu khó…nhưng riêng thợ kim hoàn lại càng đòi hỏi cao hơn: mười gón tay thợ phải điêu luyện đến mức “thần kỳ” mới có thể cầm kìm, đánh búa để đánh những vòng dây vàng, dây bạc có đường kính cực nhỏ tới hàng li, hoặc chạm trổ những hoa văn cầu kỳ mắt thường khó thấy.
Trong nghề thợ bạc, việc chế được thứ vảy để hàn là bí quyết chính. Vảy này là một thứ vàng thấp tuổi, dùng để hàn hai mối dây hay liên kết các bộ phận lại với nhau, khi đầu mối hàn đã có nhiệt độ cần thiết, vảy này kéo theo hai đầu mối vật hàn dính chặt, mối hàn trở nên bóng loáng khó phát hiện ra. Bởi vậy, thợ bạc Nam Trị hơn hẳn các thợ bạc nơi khác vì họ chế được thứ vảy lợi hại hơn.
Tương truyền, thời phong kiến những người thợ bạc của vùng đất Nam Trị rất tài giỏi, có kỷ năng riêng biệt với đôi tay tài hoa và óc nhận thức sáng tạo tinh tế nên được các vua triều Nguyễn triệu vào cung để chế tác đồ ngự dụng, đồ mĩ nghệ và các loại vũ khí. Bàn tay khéo léo tài hoa, đức tính cần cù tỉ mỉ với những công việc tạo hình chạm khắc của các ngân tượng (thợ bạc) đã làm ra các loại đồ như nhẫn, dây chuyền, quả đào, lư hương… được nhà vua và các bậc vương hầu rất cảm phục. Trong số đó có những người con của dòng tộc Nguyễn Hữu như Nguyễn Hữu Nghiên, Nguyễn Hữu Lai vinh dự được nhà vua nhiều lần ban tặng sắc, chỉ khen ngợi và ban cấp chức tước.
Theo sử liệu ghi chép: “ Dòng họ Nguyễn Hữu đã sản sinh ra nhiều bậc danh nhân dũng tướng cho đất nước…Quả là một dòng họ có sức sống phi thường, từ cái gốc Gia Miêu (Thanh Hóa) mà lan ra khắp cả nước, có con cháu giữ nhiều chức vụ cao trong các triều đại”. Do sự biến thiên của lịch sử và chiến tranh tàn phá nên những tư liệu để nhận biết về gốc tích nguồn cội của dòng tộc Nguyễn Hữu Nam Trị không còn. Lần theo những lời kể của con cháu dòng tộc, nội dung bài văn cúng và dựa theo sự nghiên cứu phả tộc của các dòng họ trong vùng cho thấy, khởi nguyên dòng tộc Nguyễn Hữu đến định cư Nam Trị khoảng vào thế kỉ XV, thủy tổ là Triệu Tổ làm quan trong triều đến chức Tiền đô chỉ huy sứ giữ lương hầu. Vị Thần tổ của dòng họ là Nguyễn Hữu Thái, tương tuyền ông là người võ nghệ cao cường, làm quan lớn trong Thị nội vương phủ dưới triều vua Minh Mệnh và từng được ban cấp 5 đạo sắc nhưng hiện nay số sắc phong đó không còn, sự nghiệp chỉ được biết đến trong bài văn tế viết bằng chữ Hán còn lưu lại với nội dung: “Thần tổ khảo Tiền ưu binh, cơ tương cuộc, ân tứ kim ngân, thị nội vương phủ xuất nhập bất cấm, Từ quốc thái Nguyễn Quý Công”[2].
Họ Nguyễn Hữu là một trong những dòng tộc lớn và phát triển thịnh vượng trên vùng đất Nam Trị, xưa ở vùng này rất nhiều am miếu được xây dựng để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân và theo lời kể của các bậc cao niên cho biết “những cái Am lớn nhất trong vùng đều do con cháu họ Nguyễn Hữu xây dựng”. Những bậc tiền bối trong dòng tộc như cụ Nguyễn Hữu Nghiên và Nguyễn Hữu Lai vốn là những thợ bạc vững tay nghề nhất vùng đất Nam Trị vào thời đó, nên được triều đình cho mời vào cung để chế tạo các loại vũ khí, trang sức cho các cung tần mĩ nữ, đồ ngự dụng và các mặt hàng trang sức xuất khẩu sang Pháp. Những người thợ bạc tài hoa đó đã được nhà vua rất coi trọng và đã nhiều lần cho ban cấp sắc phong, ban thưởng ngân tiền để tỏ rõ sự khuyến khích coi trọng. Đời vua Thành Thái thứ 7 cấp bằng Thí sai, tòng cửu phẩm cho Nguyễn Hữu Nghiên, nội dung:
Quan đại thần hiệp biện Đại học sĩ Khâm mệnh tiết chế quân vụ Nguyễn về việc cấp bằng
Xét thấy ngân tượng Nguyễn Hữu Nghiên quê quán thôn Nam Trị, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh theo làm việc chế tạo vũ khí cho quân đội, rất có công lao. Nên được thưởng cấp bằng Thí sai, Tòng cửu phẩm, Tượng mục để biểu thị sự khuyến khích của triều đình. Trừ việc tư riêng cho tỉnh, căn cứ theo quê quán để sức theo đó mà cấp bằng để tuân theo. Cho nên cấp bằng này.
Trên đây là bằng cấp !
Ngày 29 tháng 10 năm Thành Thái thứ 7(1895)
Bằng cấp cho Ngân tượng Nguyễn Hữu Nghiên
Sắc Thành Thái năm thứ 10 ban cấp cho ngân tượng Nguyễn Hữu Nghiên, nội dung:
Sắc ban cho ngân tượng Nguyễn Hữu Nghiên quê quán tại thôn Nam trị xã Chỉ Châu tổng Hạ Nhất huyện Thạch Hà phủ Hà Thanh tỉnh Hà Tĩnh trong đợt này có công trong đợt chế tạo vũ khí cho quân đội. Nên nay chuẩn cho nhận Tòng cửu phẩm chức Tượng mục để biểu thị sự khuyến khích của triều đình. Kính thay! Ngày mồng 1 tháng 2 năm Thành Thái thứ 10(1898).
Năm Thành Thái thứ 14, Nguyễn Hữu Nghiên được vua ban sắc phong, chiếu chỉ thăng chức từ Tòng Cửu phẩm lên Tòng Bát phẩm, nội dung:
Sắc cho Tượng mục ngân tượng Tòng Cửu phẩm là Nguyễn Hữu Nghiên vì có công lao nên nay các đại thần ở viện cơ mật hội bàn xin cho người thăng nhận Tòng Bát phẩm để tỏ rõ sự khuyến khích của triều đình. Kính thay!
Ngày 26 tháng 11 năm Thành Thái năm thứ 14(1902).
Bộ Binh về việc tuân lục
Chỉ sự, căn cứ bản ghi chép trình bày của Viện Cơ mật, ngày tháng này vâng chuẩn cho Ngân tượng Tòng Cửu phẩm Tượng mục Nguyễn Hữu Nghiên thưởng nhận Tòng Bát phẩm. Theo đó giao tuân lục này để tuân theo mà làm việc. Cho nên cấp tuân lục này.
Trên đây là tuân lục
Ngân tượng Tòng Cửu phẩm Nguyễn Hữu Nghiên căn cứ vào đây.
Ngày 26 tháng 12 năm Thành Thái thứ 14(1902).
Năm Khải Định thứ 3, Nguyễn Hữu Nghiên được thăng chức đội trưởng, Tòng Thất phẩm. Sắc có nội dung:
Sắc cho Ngân tượng Tòng bát phẩm Tượng mục Nguyễn Hữu Nghiên chuyên chế tác đồ Ngự dụng, các thứ đều tinh xảo. Nay bộ binh hội bàn xin chuẩn cho ngươi được thưởng thăng lên Tòng thất phẩm, chức đội trưởng, vẫn tiếp tục làm tượng mục để biểu thị sự khuyến khích trong công vệc. Kính thay!
Ngày mồng 3 tháng 6 năm Khải Định thứ 3(1918)
Tuân lượng cấp thưởng cho Nguyễn Hữu Lai
Đặc điểm của nghề thợ bạc Nam Trị là những người thợ lành nghề không theo trường lớp nào mà cha truyền con nối. Nguyễn Hữu Lai là con trai cả của Nguyễn Hữu Nghiên, ngay từ khi còn trẻ tuổi đã tỏ ra là người thông minh nhanh nhẹn, tài năng. Sớm nối nghiệp cha mình, ông cũng nổi tiếng tài năng, chế tạo được nhiều sản phẩm tinh tế nên cũng sớm được thỉnh vào cung cùng cha mình làm tượng mục. Sản phẩm ông làm ra đều rất tinh xảo, nhận được sự thán phục của triều đình và đặc biệt rất được thương nhân nước ngoài ưa chuộng. Để tỏ lòng khuyến khích những người thợ tài hoa, dưới triều vua Khải Định, ông đã được ban thưởng ba hạng là tiền bạc, vẩu chuông, giải mũ để treo và được phong Tuân cấp, nội dung :
Viện Cơ mật về việc tuân cấp
Nay vâng chuẩn cho Ngân tượng Nguyễn Hữu Lai và có nhiều công cán nặng nhọc, chế tạo mọi thứ đều tinh xảo. Nên thưởng ba hạng là tiền bạc, vẩu chuông và giải mũ để treo, biểu thị sự khuyến khích của triều đình. Kính thay. Nhân đây cấp ngay Tuân cấp này để vâng phụng. Cho nên cấp Tuân cấp này.
Ngày 2 tháng 4 năm Khải Định thứ 9 (1924)
Hiện nay, các bằng cấp, chiếu chỉ và các tuân lục của các vị tiền tổ vẫn được con cháu lưu giữ cẩn thận tại nhà thờ như một minh chứng cho tấm lòng thành kính đối với các bậc tiền bối.
Trải qua sự biến thiên của thời gian và sự biến đổi của thời cuộc, sự thử thách của xã hội nên làng nghề thủ công truyền thống thợ bạc Nam Trị đã bị mai một, bí quyết nghề nghiệp dần bị thất truyền cùng với sự ra đi của những nghệ nhân lớn tuổi. Thiết nghĩ, phục hồi và phát triển làng nghề là một việc vô cùng khó khăn, bởi song hành với nhận thức của các cấp chính quyền, các nhà quản lý hoạch định chính sách từ trung ương đến địa phương thì yếu tố con người (thợ thủ công) kế nghiệp là rất quan trọng lại không còn. Hình ảnh những người thợ giỏi giang, cần cù tỉ mỉ ngồi tạo hình, chạm khắc hoa văn tạo ra các sản phẩm đẹp tinh tế đã đi vào dĩ vẵng./. Nguyễn Thị Thu Thanh
Chú thích:
[1] Làng cổ Hà Tĩnh, Tập 1, tr. 43.
[2] Văn tế bằng chữ Hán của dòng họ Nguyễn Hữu.