Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Phạm Văn Lãng, hiệu Lộc Phong, sinh năm Kỷ Vị (1859), niên hiệu Tự Đức thứ 13, thời Nguyễn trong một gia đình nghèo khó. Ông quê thôn Nhân Thi, xã Phụng Công, tổng Đồng Công, huyện Đức Thọ (nay là xã Tân Dân – Đức Thọ). Cha ông là Phạm Văn Nghiêm do nghèo mà không thể đi học, nhưng tính thẳng thắn, siêng năng không thích nịnh nọt. Mẹ ông là người phụ nữ trung hậu, một lòng thương con.
Phạm Văn Lãng là người thông minh, hiếu học, đứng đắn và cơ trí. Lúc nhỏ theo học chữ Hán các thầy đồ trong vùng. Ông theo học thầy Bội (người thôn Phúc Đậu, xã Phúc Dương, huyện Hương Sơn) nhưng phải thôi học vì nhà quá nghèo. Năm Tự Đức thứ 17 (1873), lúc 14 tuổi, ông trốn qua xin học tại nhà ông Võ Cát, làng Hạ (nay thuộc xã Hòa Lạc – Đức Thọ), thầy dạy người làng Hoàng Trù, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, tối lấy hương thay đèn đọc sách và học không thấy chán. Học được một năm thì nghĩa lý hơi thông. Năm 15 tuổi lại sang xin học thầy quê Hoàng Trù ở nhà cố Trương, làng Đoài (nay thuộc xã Hòa Lạc – Đức Thọ). Năm ấy đã tập làm thơ văn, kinh nghĩa…Năm 17 tuổi, thầy quê Hoàng Trù dạy học ở nhà ông Võ Cát, ông lại sang theo học và biết làm đủ các thể văn thơ. Năm 18 tuổi, mang theo cơm gạo tìm thầy Tú Liêu, người thôn Phương Duệ, tổng Thượng Bồng (nay là xã Đức Hương – Vũ Quang) để theo học. Năm 19 tuổi, học tập rất tiến bộ ở nhà thầy tú Thái Lý, xã Dĩ Ốc, huyện Hương Sơn. Trong lớp có 50 học sinh thì ông đứng đầu. Năm 20 tuổi, ông dạy học ở nhà nhưng đi sát hạch không đỗ. Trải qua 3 năm học ở Dĩ Ốc, đường sá xa xôi nhưng ông không nghỉ một ngày nào. Mỗi tháng làm văn sáu kỳ nhưng chưa khi nào vắng mặt. Ngoài chỗ ngủ, nhốt một con gà trống, mỗi đêm gần sáng nghe gà gáy là dậy học. Năm 20 tuổi, ông đi thi đỗ nhất trường cùng với Đoàn Tử Quang. Năm 22 tuổi vẫn theo học thầy cũ. Năm 23 tuổi, ông dạy học ở nhà ông cai Liên, thôn Phúc Đậu, xã Phúc Dương, huyện Hương Sơn và học với thầy tú Cận, người xã Văn Giang. Năm 24 tuổi đi thi hỏng đệ nhất trường. Năm 25 tuổi, dạy học ở nhà ông Toại, làng Hạ và học với thầy tú Thái. Từ tháng 9 năm 1984 lập Hội Mai Đình để giảng tập. Năm 26 tuổi, ông thi đỗ đệ nhất trường. Năm 27 tuổi, trúng sát hạch.
Bức đại tự Phong Vận Cao của Cử nhân Phạm Văn Lãng
Năm Ất Dậu (1885) là năm vua Hàm Nghi phát hịch Cần Vương lần thứ nhất kêu gọi sĩ phu và nhân dân đứng dậy chống thực dân Pháp khi tiến hành xuất bôn ra Tân Sở, tỉnh Quảng Trị, rồi phát hịch Cần Vương lần thứ hai khi đến thành Sơn Phòng của tỉnh Hà Tĩnh và được nhiều sĩ phu và nhân dân yêu nước Hà Tĩnh hưởng ứng, trong đó tiêu biểu nhất có Đình Nguyên Tiến sĩ Phan Đình Phùng. Sau đó, cụ Phan đã tổ chức thành cuộc khởi nghĩa Hương Khê chống Pháp ở bốn tỉnh Thanh – Nghệ - Tĩnh – Bình kéo dài suốt 10 năm từ 1885 đến 1896. Phạm Văn Lãng là một sĩ phu, trí thức cho nên ông cũng không dửng dưng với thời cuộc. Năm 1889, năm 30 tuổi ông đã bị thực dân Pháp bắt giam 2 tháng. Sau khi được thả ra, ông trở về dạy học ở ông Phạm Tiệp, nhà cùng thôn. Năm 31 tuổi, ông học cùng Đoàn Tử Quang. Năm 32 tuổi dạy học ở nhà ông Phan Khoát, người cùng thôn.
Lúc 32 tuổi, nhờ học rộng, có đạo đức tốt và lý lịch trong sạch, Phạm Văn Lãng được tham gia và đỗ Cử nhân ở kỳ thi Hương ở Trường thi Nghệ An năm Tân Mão (1891) đời vua Thành Thái. Khoa thi này có chủ khảo là Phạm Hữu Xứng (Tham tri Bộ Công), Phó chủ khảo là Bùi Hữu Tạo (Tham biện Nội các). Khoa thi lấy 20 cử nhân, Hà Tĩnh có 3 người, ngoài Phạm Văn Lãng ra còn có Nguyễn Đức Huy, người Ngu Xá, nay là xã Thạch Trị - Thạch Hà và Trần Vinh, người Xuân Trì, nay thuộc xã An Hòa Thịnh - Hương Sơn. Kỳ thi Hương dưới triều Nguyễn là kỳ thi liên tỉnh cứ 3 năm tổ chức một lần nhằm tuyển chọn người có tài, học hành, thi đỗ, là “nguyên khí quốc gia” ra làm quan; thể hiện nền trí trị của chế độ phong kiến thời Nguyễn lúc bấy giờ. Đây là vinh dự, tự hào của bản thân cũng họ hàng thân thích, xóm làng của người đỗ đạt. Năm Thành Thái thứ 5 (1893), ông tham gia kỳ thi Hội hỏng đệ nhị trường. Ông làm đơn xin vào học ở Quốc Tử Giám ở Huế và được nhận học bổng, chờ kỳ thi sau.
Thời gian này, ông trở về làng tổ chức cho làm lại đình, chùa trong làng vì đình chùa bị đốt cháy trong khởi nghĩa Hương Khê. Làm xong, ông lại trở vào Huế học ở Quốc Tử Giám. Năm này, nhân lúc anh trai Phạm Văn Khuynh mất, ông về thăm nhà và lập hội khảo sát học sinh tổng Đồng Công, hàng năm khảo sát 4 kỳ, mỗi quý 1 kỳ. Ông còn cho trồng tre ở đất công bỏ hoang và đặt điều ước bảo vệ cây cối. Ông còn họp hào lý trong làng đo đạc lại ruộng đất công và tư, lập 4 bản điền bạ. Ông buộc giáo dân trả lại ruộng tế cho làng.
Năm Thành Thái thứ 8 (1896), ông lại vào Huế học tập ở Quốc Tử Giám. Sau khi thi hỏng đệ tam giáp, ông trở về quê nhà. Năm 1897, ông lại trở lại học ở Quốc Tử Giám, Huế.
Năm Thành Thái thứ 11 (1899), ông được tin bổ dụng Hậu bổ tỉnh Nghệ An. Tháng 3 cùng năm nhận công tác. Tháng 5 cùng năm, ông thành lập Tổng hội tư văn tổng Đồng Công. Năm Thành Thái thứ 12 (1900), ông lập sổ binh điền làng. Tháng 6 cùng năm được bổ làm Biên tu. Đây là chức quan đảm trách việc sửa chữa và ghi chép các văn bản ở Hàn Lâm viện. Năm Thành Thái thứ 13 (1901) được thăng làm Tu soạn. Đồng thời, ông cũng làm xong bản điều ước Hội viên hàng tổng Đồng Công và bản hương ước của làng. Năm Thành Thái thứ 15 (1903), ông tổ chức làm lại nhà văn chỉ của làng. Tháng 7 cùng năm, ông biên đạc lại ruộng công làng.
Bản hương ước ông soạn có nhiều tư tưởng tiến bộ. Hương ước nghiêm cấm rượu chè, cờ bạc; đắp đường sá cho tiện giao thông, đào ao đầm lấy nước tưới ruộng; trích ruộng công làm tế điền, binh điền, học điền, còn bao nhiêu chia cho dân nghèo; lập kho nghĩa thương chống đói cho dân; trích lúa ấy để nạp thuế thân...
Năm Thành Thái thứ 16 (1904), ông được bổ chức quyền Tri phủ Diễn Châu, rồi quyền Tri huyện Yên Thành (Nghệ An). Tháng 10 cùng năm, ông trở về tỉnh công tác. Năm Thành Thái thứ 17 (1907), ông được bổ chức Tri huyện Đại Lộc (Quảng Nam).
Năm Duy Tân nguyên niên (1908), phong trào chống sưu thuế Trung Kỳ nổ ra, nhân dân xin giảm thuế thân ở huyện Đại Lộc (Quảng Nam). Triều đình lệnh cho Phạm Văn Lãng dẹp ngay cuộc nổi dậy nhưng ông không tuân lệnh và bị triều đình quy cho ông không có khả năng thuyết phục dân chúng, rồi triệu ông về kinh. Nhân lúc này, ông lấy cớ phụng dưỡng cha, mẹ đã già yếu để xin về hưu trước tuổi.
Ông mất năm Bính Thìn (1916), đời vua Khải Định, thọ 57 tuổi, mộ táng tại núi Mộng Sơn.
Nhà thờ Phạm Văn Lãng hiện nay là một công trình kiến trúc tính ngưỡng gồm 3 gian với diện tích khá rộng được xây dựng vào năm Thành Thái thứ 16 (1904), cách ngày nay gần 120 năm, được trang trí nhiều đề tài truyền thống. Trong di tích còn lưu các đôi câu đối bằng chữ Hán, gia phả cũng như các đồ tế khí có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học, tiêu biểu có bức hoành phi chữ Hán ca ngợi Cử nhân Pham Văn Lãng, ghi 3 đại tự: 風韻高, PHONG VẬN CAO, nghĩa là Phong độ cao cường; 和亭小甥阮如撰莊奉, Hòa Đình tiểu sanh Nguyễn Như Soạn trang phụng, nghĩa là con rể Hòa Đình Nguyễn Như Soạn trân trọng kính biếu và 保大癸酉春, Bảo Đại Quý Dậu xuân, nghĩa là hoành phi làm vào mùa xuân, năm Quý Dậu (1933) đời vua Bảo Đại.
Như vậy, qua nghiên cứu hành trạng của Cử nhân Phạm Văn Lãng cho thấy ông là một người có ý chí vươn lên, không chịu khuất phục trước hoàn cảnh. Là người học hành đỗ đạt cao và làm quan trong chính quyền phong kiến nhà Nguyễn, ở vị trí nào, ông cũng có đóng góp đối với nhân dân và đất nước, luôn đặt lợi ích chung của nhân dân lên hàng đầu./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Thái Kim Đỉnh (2004), Các nhà khoa bảng Hà Tĩnh, Hội VHNT Hà Tĩnh. Thái Kim Đỉnh (2004), Địa chí huyện Đức Thọ, Nxb Lao Động, Hà Nội. Đỗ Văn Ninh (2002), Từ điển chức quan Việt Nam, Nxb Thanh Niên, Hà Nội. Bùi Thiết (2000), Từ điển Hà Tĩnh, Sở VH&TT Hà Tĩnh. Gia phả họ Phạm Văn, thôn Lộc Phúc, xã Tân Dân – Đức Thọ (Bản chữ Quốc Ngữ).