Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Vào khoảng cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17 là thời kỳ hoạt động ngoại thương ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á phát triển, trong đó có cả Việt Nam và Nhật Bản. Thời kỳ này, ở Đàng Trong có Chúa Nguyễn, Đàng Ngoài chúa Trịnh nắm thực quyền, tạo điều kiện làm ăn buôn bán với người nước ngoài. Giai đoạn này cũng là thời kỳ Châu Ấn Thuyền (1603-1635), chính quyền Mạc phủ Tokugawa cho phép thương nhân Nhật Bản đi thuyền buồm có vũ trang buôn bán với các nước trong khu vực Đông Nam Á. Điều đó, thúc đẩy hai nước Việt Nam, Nhật Bản mở rộng giao thương, góp phần hình thành nên các thương cảng cổ, phố cổ như Phố Hiến, Càn Hải, Hội Thống, phố cổ Phù Thạch, Phục Lễ, Hội An…ảnh hưởng đến tình hình kinh tế, xã hội ở địa phương. Ở Phù Thạch, Phục Lễ - Chợ Tràng ở xứ Nghệ, nhiều người Nhật Bản đã đến làm ăn lâu dài, lập thương điếm. Thương nhân Nhật Bản có công hình thành nên các phố cổ ở hai bên bờ sông Lam.
Nhằm phục vụ việc thu thuế cũng như tạo điều kiện cho người nước ngoài buôn bán, trao đổi tiền tệ, hàng hóa với người địa phương, chúa Trịnh lúc này là Bình An vương Trịnh Tùng (ở ngôi chúa từ 1570 – 1623), đã cử quan lại chủ yếu là người địa phương như Phò mã Quảng Phú hầu Nguyễn Cảnh Hà, Thư quận công Nguyễn Cảnh Kiên, Tổng thái giám, quan Đô đường Văn Lý hầu Trần Tịnh…đến cai trị, làm các thủ tục, xử lý các vụ việc liên quan đến người nước ngoài, không chỉ cấp phép cho họ làm ăn buôn bán mà còn tạo điều kiện cho họ tự do đi lại, hỗ trợ giúp đỡ họ khi gặp khó khăn, hoạn nạn.
Một sự kiện xẩy ra cách đây hơn bốn thế kỷ, vào ngày 11 tháng 6 năm Hoằng Định thứ 10 (1610), khi một chiếc thuyền lớn của Nhật Bản sau khi được vào buôn bán ở dòng sông Lam, rời Phục Lễ, đã chuẩn bị trở về đất nước Nhật Bản với đầy hàng và người trên thuyền, đi suôn sẽ, không gặp vấn đề gì trên dòng sông Lam, thì trước khi ra biển đi về hướng Bắc, bổng nhiên sóng gió nổi lên nhấn toàn bột người và hàng xuống cửa biển Hội Thống. Trong cơn hoạn nạn, nhận được thông tin kịp thời, các quan chức địa phương đã cử quân lính bằng mọi biện pháp và phương tiện có thể có đến tiếp ứng cứu vớt được 105 người trong tổng số 118 người, 13 người xấu số trong đó có chủ tàu đã bị chết đuối, chiếc thuyền hàng đã chìm hẵn cho đến bây giờ vẫn không biết tọa độ ở chỗ nào ở cửa Hội Thống, hàng hóa trên thuyền có những gì. Trong số người may mắn sống sót có 39 người được Đại Đô đường hữu phủ Thư quận công, 26 người được Văn Lý hầu Trần Tịnh, 49 người được Phò mã Quảng Phú hầu Thượng thư cưu mang, đưa về tư gia, xuất gia sản nuôi ăn ở trong một năm. Sau đó, họ đã trình lên Bình An vương Trịnh Tùng và Trịnh Tùng sai người đưa họ về kinh đô yết kiến. Cảm thương trước những thương nhân người viễn quốc gặp nạn, chúa Trịnh đã ban thưởng cho họ và sai người đóng thuyền lớn đưa về nước an toàn. Trước khi họ về Trịnh Tùng đã trực tiếp viết thư và sai quan lại viết thư gửi về Nhật Bản trình bày sự việc, tỏ rõ sự hòa hiếu của An Nam với Nhật Bản.
Cửa biển Hội Thống nơi chiếc thuyền Nhật Bản bị đắm năm 1610
Văn Lý hầu Trần Tịnh quê làng Mật Thiết, xã Nguyệt Ao, huyện La Sơn, xứ Nghệ An (nay là xã Kim Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh) là một hoạn quan, có vợ là bà Ngô Thị Ngọc Lợi quê xã Thường Nga nơi nổi tiếng có nhiều phụ nữ đẹp “Thường Nga cửu thế cửu cung phi”. Nhưng không có con đẻ để nối dõi tông đường. Ông có lòng thương người lớn lao, lại có đức từ tâm, hướng thiện, tin theo đạo Phật. Ông đã không tiếc công sức, của cải để cứu người gặp nạn. Trong một năm sinh sống, những người xa lạ đã trở thành thân quen, có những tình cảm gắn bó với nhau. Khi chia tay trở về nước Nhật Bản xa xôi, họ vô cùng cảm động biết ơn. Trong số những người gặp nạn được cưu mang, ông yêu thương nhất là một người con gái Nhật Bản, cô cũng rất quý trọng ông, được đề nghị nhận làm con nuôi. Cô không từ chối và nhận lời. Cô được mang họ Trần và có họ tên đầy đủ là Trần Thị Dưỡng Nương, hiệu là Từ Kiệm. Cô trở thành người con gái thật sự của Văn Lý hầu Trần Tịnh. Đến tuổi lập gia đình, Văn Lý hầu Trần Tịnh muốn gã con cho một người xứng đáng để làm chồng. Sau khi tìm hiểu, ông giới thiệu con mình cho Hình bộ Lang trung Nguyễn Như Thạch(1579 -1662), một vị quan đời thứ sáu của dòng họ Nguyễn Huy ở làng Trường Lưu, huyện La Sơn. Việc gã con cho một người quan lại của một dòng học danh giá có lẽ trong thâm tâm, Văn Lý hầu cũng muốn được môn đăng hộ đối, cũng có thể là muốn kết giao bền lâu giữa hai dòng họ Trần – Nguyễn hay có thể giữa Trần Tịnh và Nguyễn Như Thạch là bạn bè của nhau. Dù thế nào đi nữa, Trần Tịnh cũng có một tình cảm đặc biệt đối với làng Trường Lưu cách quê ông không xa. Nơi đây, vợ chồng ông đã không tiếc tiền bạc để trùng tu lại ngôi chùa ở đây có tên là Gia Hưng tự.
Sau khi xuất giá, bà Trần Thị Dưỡng Nương trở về làng Trường Lưu làm người vợ lẽ bên cạnh chồng Nguyễn Như Thạch. Bà tận tụy, đảm đang chăm sóc chồng, “cái ơn chạy vạy có thể xem bà là nhất, từ đó nhìn ra gia đạo ngày càng hưng thịnh”. Bà là chỗ dựa vững chắc hầu hạ để Hình bộ Lang trung Nguyễn Như Thạch toàn tâm lo việc nước. Bà được người trong làng và trong dòng họ quen gọi là “mệ bà”. Hiện nay, chưa tìm thấy tài liệu nào ghi chép cụ thể Nguyễn Như Thạch có con với bà Trần Thị Dưỡng Nương hay không nhưng từ đời Nguyễn Như Thạch trở đi, dòng họ Nguyễn Huy đã sinh ra nhiều đại quan, các nhà khoa bảng, các nhà văn hóa nổi tiếng một thời như Thám hoa Nguyễn Huy Oanh, Tiến sĩ Nguyễn Huy Quýnh, Nguyễn Huy Cự, Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Huy Hổ… và nơi sản sinh ra Trường học Phúc Giang nơi đào tạo 30 tiến sĩ, hàng ngàn học trò cho đất nước. Âu đó cũng là một phần công lao đóng góp của người phụ nữ Nhật Bản.
Hiện chưa biết mệ bà mất năm nào. Nhưng sau khi mất bà được an táng tại núi Mác sau đó, được cải táng về núi Phượng, làng Trường Lưu, xã Lai Thạch, huyện La Sơn (nay là xã Trường Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh).
Bia ghi thân thế sự nghiệp của Trần Tĩnh, người cha nuôi của cô gái Nhật Bản
Nhằm tìm hiểu thân phận của người con gái Nhật Bản được cứu vớt trên tàu buôn Nhật Bản bị chìm ở cửa biển Hội thống hơn 400 năm về trước, con nuôi của Văn Lý hầu Trần Tịnh và mối quan hệ Việt Nam – Nhật Bản thời kỳ Lê Trung Hưng, nhiều đoàn nghiên cứu đến từ Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học quốc gia Hà Nội), Viện Nghiên cứu Văn hóa Con người thuộc Bộ Văn hóa, Giáo dục Nhật Bản, Trường Đại học Nữ Chiêu Hòa, Đại học Osaka, Hội chấn hưng Nhật Bản, trong đó có vợ chồng Giáo sư Kikuchi, Phó Giáo sư Hasuda Takashi… đã hợp tác với Bảo tàng tỉnh Hà Tĩnh đi khảo sát thực tế tại các di tích, tìm hiểu các thư tịch cổ, văn bia, khai quật khảo cổ… đã lần theo dấu vết, kết nối các tư liệu hiện tồn, có kết quả bước đầu, mở ra nhiều hướng nghiên cứu mới làm sáng tỏ nhiều vấn đề trong quan hệ hai nước Việt Nam – Nhật Bản, để không ngoài mục đích nhằm thắt chặt hợp tác và tình hữu nghị./.