Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Chuông chùa Rối được một số người dân phát hiện năm 1989 tại khu đất trước đây ngôi chùa Rối đã thành phế tích tại xã Cẩm Thịnh, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Sau được phát hiện chuông đã được chuyển qua các cơ quan khác nhau để cất giữ. Hiện nay, chuông được đưa về bàn giao cho Bảo tàng Hà Tĩnh bảo quản và phát huy giá trị. Có tên là chuông chùa Rối vì được phát hiện ở chùa Rối chứ trên chuông không có dòng chữ Hán tự đại tự nào ghi tên chuông chùa như những quả chuông có niên đại muộn về sau này.
Chuông chùa Rối
Căn cứ Điều 21, Luật số 32/2019/QH12 sửa đổi bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2009, một hiện vật để trở thành Bảo vật quốc gia phải đáp đứng đầy đủ 3 tiêu chí sau: Là hiện vật gốc độc bản; là hiện vật có hình thức độc đáo; Là hiện vật có giá trị đặc biệt liên quan đến một sự kiện trọng đại của đất nước hoặc liên quan đến sự nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân tiêu biểu; hoặc là tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng về giá trị tư tưởng, nhân văn, giá trị thẩm mỹ tiêu biểu cho một khuynh hướng, một phong cách, một thời đại; hoặc là sản phẩm được phát minh, sáng chế tiêu biểu, có giá trị thực tiễn cao, có tác dụng thúc đẩy xã hội phát triển ở một giai đoạn lịch sử nhất định; hoặc là mẫu vật tự nhiên chứng minh cho các giai đoạn hình thành và phát triển của lịch sử trái đất, lịch sử tự nhiên.
Về tiêu chí thứ nhất, chuông chùa Rối là hiện vật gốc độc bản duy nhất, không có cái thứ hai, được phát hiện tại khu đất thuộc chùa Rối của xã Cẩm Thịnh, huyện Cẩm Xuyên trong tình trạng tương đối nguyên vẹn, niên đại thế kỷ XIII – XIV, chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử xẩy ra trong quá khứ hàng trăm năm. Nằm trong lòng đất một thời gian dài nên hiện vật đã bị rỗ nhiều chỗ trên bề mặt, một số chữ Hán của bài minh văn đã mờ chữ.
Về tiêu chí thứ hai, chuông chùa Rối là hiện vật có hình thức độc đáo. Chuông bao gồm quai và thân. Quai được tạo thành theo hình dáng một con rồng trong tư thế khom lưng, bốn chân bậm bạp, mỗi chân 4 móng kiểu móng đại bàng quắp lấy đỉnh chuông. Rồng ở đây được tạo tác khá công phu, toàn thân tạo vảy, giữa mỗi vẩy có chấm tròn, bố trí xen kẻ nhau theo kiểu vảy cá chép, lưng rồng có bờm thấp cao khác nhau trông khá sinh động. Đuôi rồng cụt, đầu rồng nhỏ so với thân, có những bờm ti ti. Đường nét thân rồng khum thành một vòng cung đều đặn chắc khỏe có thể treo trên giá chịu được trọng lượng hàng trăm ki lô gam của quả chuông. Thân chuông hình khối trụ tròn liền khối bằng đồng, miệng to và nhỏ khum thon dần về phía đỉnh. Thân chuông được trang trí, chia thành hai phần được giới hạn bởi năm đường gờ nổi, đường gỡ nổi chính giữa to, cao hơn cả. Phần trên cao 57cm chia thành bốn hình thang cân, đứng, bằng nhau. Những ô hình thang cân, cạnh dưới to, cạnh trên nhỏ, hai cạnh bên bằng nhau. Phần dưới cao 35cm, chia thành bốn ô hình chữ nhật nằm bằng nhau. Hình chữ nhật nằm được giới hạn thông qua năm đường gân nhỏ chạy dọc từ trên xuống dưới và chạy ngang bao quanh chuông. Trên đỉnh là ba đường gân chạy bao quanh với khoảng cách đều nhau tạo thành những đường tròn đồng tâm. Chuông có sáu nhúm thỉnh chuông, hình dáng giống nhau, kích thước bằng nhau: 10cm, hình tròn hoa sen với 13 cánh sen lớn, lật úp, đều nhau, 13 cánh sen nhỏ cũng lật úp đều nhau, cánh to, cánh nhỏ bố trí xen kẽ nhau. Trong số các núm đó, có 2 núm được bố ở vị trí gần dưới miệng chuông, trên các đường gờ nổi, nằm đối xứng nhau qua tâm chuông, chia đường tròn phía dưới chuông thành hai cung tròn bằng nhau. Ở đường tròn gờ nổi ở giữa chuông, bố trí bốn núm chuông ở khoảng cách đều nhau với hai cặp đối xứng nhau qua tâm chuông. Ở phần miệng chuông được trang trí cầu kỳ với 86 cánh hoa sen lập úp, viền cánh sen có hai đường gờ nổi, trong số đó có 43 cánh to, 43 cánh nhỏ nằm xen kẻ nhau bao quanh vành miệng chuông. Kích thước chuông cao 115cm (tính từ miệng chuông đến quai chuông), đường kính miệng 65cm, tỷ lệ giữa chiều cao và đường kính miệng 1,738. Trên chuông chùa Rối có khắc bài thơ thất ngôn tứ tuyệt bằng chữ Hán của Hiệp Thạch Phạm Sư Mạnh. 33 chữ Hán được khắc phần lớn thể hành thư, một số chữ ở thể thảo thư. Bài thơ được dịch nghĩa như sau:
Nhìn theo núi Hoành Sơn, phía Nam là một vùng biển lớn,
Sóng kình dữ dội tung bọt trắng,
Trùng trùng vạn dặm đường Nam chinh,
Xa giá đến châu Bố Chánh giúp chính sự được yên”.
(Phạm Sư Mạnh, hiệu Hiệp Thạch)
Phạm Sư Mạnh là một nhà thơ thời nhà Trần theo xa giá nhà vua thân chinh đi chinh phạt Chiêm Thành đến đất Hoan Châu Bố Chánh. Trước cảnh tượng hùng vĩ, bao la mà hoang vắng của non nước, đất trời của dãy Hoành Sơn, giáp với biển Đông, vùng biên viễn của quốc gia Đại Việt, tức cảnh nhà thờ đã sáng tác ra bài thơ này.
Quai chuông (nhìn từ phía trước)
Về tiêu chí thứ ba, thì chuông chùa Rối đặc điểm trên có thể thấy chuông chùa Rối phản ảnh nhiều yếu tố lịch sử, văn hóa của Hà Tĩnh, Việt Nam.
Về phật giáo, thời Trần, Phật giáo cực thịnh, phát triển đến đỉnh cao và trở thành quốc giáo. Kéo theo đó là chùa, tháp được xây dựng ở nhiều nơi. Và chùa thì thường có chuông chùa. Những quả chuông thời Trần còn sót lại hiện nay rất có giá trị và phần lớn đã trở thành Bảo vật quốc gia nhờ những giá trị to lớn của chúng. Nếu chuông chùa Bình Lâm ở xã Phú Linh, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang thể hiện phật giáo, văn hóa phật giáo đã có mặt ở địa đầu phía bắc Đại Việt, góp phần khẳng định chủ quyền của đất nước nơi miền biên viên thời Trần thì chuông chùa Rối hiện diện ở xã Cẩm Lĩnh, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh đã thể hiện Phật giáo đã được truyền bá đến vùng phên dậu phía Nam của quốc gia Đại Việt cũng thời kỳ này, có lẽ nó đã theo đoàn quân của vua Trần Duệ Tông đi chinh phạt Chiêm Thành. Văn hóa phật giáo tới đây cũng thể hiện chủ quyền của quốc gia Đại Việt về phía nam.
Quai chuông chùa Rối (Nhìn từ mặt bên)
Về lịch sử, chuông chùa Rối là bảo vật quan trọng gắn liền với vị vua Trần Duệ Tông, Hiệp Thạch Phạm Sư Mạnh và các tướng lĩnh. Qua các tư liệu lịch sử khác cũng như nội dung bài minh văn trên chuông chùa Rối cho thấy sự kiện vua Trần Duệ Tông tháng 12 năm 1376 đã đích thân cầm quân chinh phạt Chiêm Thành. Xa giá nhà vua đã đến vùng phía nam Hà Tĩnh, vận chuyển lương thảo đến cửa biển Di Luân (Quảng Bình), rồi dừng quân một tháng để rèn luyện binh sĩ. Trong đợt thân chinh lần này đã bị mắc mưu mai phục của vua Chế Bồng Nga nên ông và các tướng sĩ đã bị giết ở trận tiền.
Trần Duệ Tông (1337-1377) là vị vua thứ 9 của triều đại nhà Trần. Ông có hai người vợ gắn liền với vùng đất Hà Tĩnh đó là Trần Thị Ngọc Hào và Nguyễn Thị Bích Châu.
Các bảo vật chuông chùa Rối cùng với Môn Hạ sản ấn và các di tích lịch sử - văn hóa liên quan đến vua Trần Duệ Tông ở Hà Tĩnh là nguồn tư liệu quý giúp chúng ta nghiên cứu lịch sử Hà Tĩnh, lịch sử Việt Nam triều Trần.
Như vậy, có thể thấy chuông chùa Rối đã đáp ứng đầy đủ các tiêu chí để trở thành Bảo vật quốc gia. Theo quy định của pháp luật hiện hành, khi là bảo vật quốc gia, chuông chùa Rối sẽ được hưởng chế độ bảo quản và bảo vệ đặc biệt và được tạo điều kiện để phát huy giá trị.