Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Chùa Côn Sơn hiện nay tọa lạc dưới chân dãy Thiên Nhẫn thuộc xã Sơn Tiến, huyện Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh. Trong khởi nghĩa Lam Sơn chống giặc Minh xâm lược, khu vực Chùa Côn Sơn nhằm trong hệ thống các di tích của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trên đất Đỗ Gia khi nghĩa quân từ Thanh Hóa đã vào đây làm thế đứng chân huy động lực lượng, lợi dụng rừng núi hiểm trở, rộng lớn để kháng quân Minh. Cuộc khởi nghĩa chính nghĩa hợp lòng dân nên nghĩa quân được sự đùm bọc của nhân dân địa phương, địa điểm Chùa Côn Sơn trở thành nơi cất giữ binh lương bí mật của nghĩa quân Lê Lợi, kết hợp với động Tiên Hoa ở Phúc Dương, Cửa Khuất ở Mân Xá, thành Lục Niên trên dãy Thiên Nhẫn, cửa Hói Nầm, cùng với các địa điểm ở miền tây thuộc tỉnh Nghệ An bây giờ tạo thành một thế trận vững chắc, từng bước phản công xuống đồng bằng rộng lớn giải phóng từng phần đất nước và đi tới chiến thắng cuối cùng.
Chùa Côn Sơn, xã Sơn Tiến, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh
1. Chùa Côn Sơn với khởi nghĩa Lam Sơn trên đất Đỗ Gia (Hương Sơn)
Chùa Côn Sơn thuộc xóm 7 (trước là xóm Côn Sơn) xã Sơn Tiến, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Xã Sơn Tiến phía đông giáp xã Khánh Sơn, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An; phía bắc giáp xã Thanh Lâm, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An; phía tây giáp xã Sơn Lễ; phía nam giáp xã Sơn An, huyện Hương Sơn. Trước Cách mạng Tháng Tám 1945, vị trí này thuộc xã Bạch Sơn, tổng Yên Ấp, tỉnh Hà Tĩnh.
Chùa Côn Sơn tọa lạc dưới chân núi Thiên Nhẫn thuộc xã Sơn Tiến, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, cách ngọn Hoàng Tâm, địa điểm chính của thành Lục Niên (thành cũng là di tích của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn) khoảng 2km.
Tương truyền, địa điểm chùa hiện nay thuộc hệ thống di tích, thành lũy khu căn cứ Đỗ Gia của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trên đất Hương Sơn ngày nay nói riêng và Hà Tĩnh nói chung, nghĩa là chùa được xây dựng vào nửa đầu thế kỷ XV. Chùa có tên Côn Sơn là do Nguyễn Trãi đặt để tưởng nhớ quê hương Côn Sơn, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương của ông.
Sau nhiều năm dấy binh khởi nghĩa ở miền núi rừng Thanh Hóa, nghĩa quân Lam Sơn nêu cao ngọn cờ đoàn kết dân tộc. Dưới sự lãnh đạo thiên tài của Lê Lợi và nhà chiến lược Nguyễn Trãi, nghĩa quân đã phá vòng vây, đánh bài nhiều trận càn quyét lớn của địch. Tuy nhiên, vùng núi rừng Thanh Hóa ngày càng trở nên chật hẹp, không đáp ứng được yêu cầu của cuộc khởi nghĩa. Sau một năm tạm hòa với địch để chuẩn bị bổ sung binh lương và tìm cách mở rộng địa bàn hoạt động.
Trước tình hình đó, tướng Nguyễn Chích đã đề nghị chuyển hướng chiến lược và đất Nghệ An nơi rừng núi hiểm yếu, đất rộng, người đông, lại có truyền thống chống giặc ngoại xâm anh dũng, quật cường, làm đất đứng chân (lập cước chi địa) làm điểm tựa vững chắc để phản công giải phóng phần còn lại của đất nước. Phủ Nghệ An lúc đó bao gồm cả Hà Tĩnh, có đủ điều kiện thuận lợi để xây dựng thành căn cứ địa của cuộc kháng chiến. Chính quyền đô hộ mới được thiết lập, lực lượng quân sự không tập trung như ở Thanh Hóa. Đây là kế hoạch mở ra một hướng chỉ đạo đúng đắn đưa cuộc khởi nghĩa bước sang một giai đoạn mới.
Tháng 10 năm 1424, nghĩa quân bắt đầu tiến quân vào Nghệ An sau khi đánh thắng các cuộc tập kích của địch và vây ráp thành Trà Lân (Con Cuông – Nghệ An). Bằng hai trận đánh Khả Lưu và Bồ Ải, nghĩa quân đã đánh bại đội quân nhà Minh do Tổng binh Trần Trí chỉ huy từ thành Nghệ An men theo sông Lam tiến lên, dồn quân địch vào thế bị động, giúp giải phòng toàn phủ Nghệ An.
Sau khi hạ thành Trà Lân, được sự chỉ đạo của Lê Lợi, Đinh Liệt đi theo đường tắt thượng đạo giành chỗ tiện lợi khu vực phía tây Hà Tĩnh, theo lưu vực sông Lam, qua truông Mèn ở phía tây chân núi Thiên Nhẫn gần khu vực Chùa Côn Sơn bây giờ. Núi Tùng Lĩnh, bến Tam Soa của huyện Đỗ Gia nơi hai con sông Ngàn Sâu và Ngàn Phố hợp lưu thành sông La chảy qua huyện Đức Thọ, có vai trò như yết hầu khống chế giao thông thủy bộ vùng này.
Hưởng ứng lời kêu gọi đứng lên kháng chiến của nghĩa quân Lam Sơn, nhiều tầng lớp nhân dân căn cứ Đỗ Gia sẵn sàng đứng dậy ủng hộ sức người sức của góp phần đánh thắng giặc Minh xâm lược. Khi nghĩa quân “chia quân đi lấy đất các châu, huyện, đi đến đâu, người ta nghe tiếng và quy phục”, “nhân dân trong cõi dắt díu nhau đến như đí chợ” [1] , trong đó tiêu biểu có Nguyễn Tuấn Thiện.
Nguyễn Tuấn Thiện nguyên quê xã Phúc Đậu, tổng Yên Ấp, nay thuộc xã Sơn Phúc, huyện Hương Sơn. Ông sinh ra trong một gia đình nghèo khó. Mồ côi cha sớm, thủa nhỏ ông phải cùng mẹ lao động kiếm sống. Lớn lên gặp cảnh đất nước bị quân Minh đô hộ và thực hiện nhiều chính sách tàn bạo đối với quê hương, đất nước, Nguyễn Tuấn thiện nung nấu ý chí diệt thù, ra lại cuộc sống thanh bình cho người dân. Ông liên kết bạn bè trong vùng thành lập đội quân Cốc Sơn, ngày đêm luyện tập võ nghệ chờ thời cơ gia nhập nghĩa quân Lam Sơn. Khi nghĩa quân do Lê Lợi lãnh đạo tiến vào giải phóng quê hương mình, ông cùng đội quân Cốc Sơn và đông đảo nhân dân trong vùng yết kiến Lê Lợi và cắt máu ăn thề, kết nghĩa anh em cùng chí hướng đánh đuổi quân Minh xâm lược. Lễ thề được tổ chức tại cây thị của xóm nậy (Sơn Phúc), bên cạnh nhà Nguyễn Tuấn Thiện. Cây thị là cây cổ thụ, phía trong thân rỗng. Từ đây, Nguyễn Tuấn Thiện trở thành anh em kết nghĩa với Lê Lợi. Ông được Lê Lợi cho làm Đô đốc Phó nguyên soái. Sau khi chiến thắng quân Minh, ông được xếp vào những khai quốc công thần của triều Hậu Lê và được ban họ vua, nên ông được gọi là Lê Thiện. Từ tháng 2 năm 1425, hầu hết toàn bộ Nghệ An được giải phóng, chỉ trừ thành Nghệ An chưa được giải phóng. Tại Nghệ An, đặc biệt là vùng căn cứ Đỗ Gia (Hương Sơn ngày nay) trong đó có vị trí chùa Côn Sơn hiện nay nằm dưới chân núi Thiên Nhẫn, giáp với hai huyện Hương Sơn và Nam Đàn đóng một vai trò vị trí chiến lược quan trọng, nơi Lê Lợi và Nguyễn Trãi đóng đại bản doanh giai đoạn 1425 – 1426. Thiên Nhẫn là dãy núi chạy theo hướng đông bắc, đông nam, điểm cuối cùng là bến Tam Soa. Núi nhấp nhô “như muôn ngựa phi” là biên giới tự nhiên giữa hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay, là bức tường thành kiến cố án ngữ phía đông của căn cứ Đỗ Gia . [2]
Cùng với đó tại vùng Hà Tĩnh, vùng đất Kỳ La, Hà Hoa, lực lượng kháng chiến do Nguyễn Biên cũng theo gia nhập nghĩa quân Lam Sơn. Nguyễn Biên quê xã Phù Lưu, nay là xã Hồng Lộc – Lộc Hà. Do điều kiện khó khăn, ông đã vào vùng núi Choác, làng Khả Luật (xã Cẩm Hưng – Cẩm Xuyên ngày nay) để sinh cơ lập nghiệp. Trước hoàn cảnh quê hương, đất nước đang chịu sự đô hộ của giăc Minh xâm lược, ông cùng với người dân địa phương thành lập nghĩa quân Động Choác, vùng dậy chống lại áp bức, bảo vệ căn cứ và khu vực giải phóng, đánh lui nhiều cuộc tiến công của quân Minh, rồi làm chủ phía nam Hà Tĩnh từ Cẩm Xuyên đến Đèo Ngang. [3]
Mảnh đất Đỗ Gia được lựa chọn như một khu căn cứ với nhiều đồn bốt, thành lũy bao quanh chốt chặn ở những mạch máu giao thông thủy bộ trọng yếu. Gần nhất, ở lòng trong là đồn trại núi Vi Kỳ ở phía bắc núi Kê Quan Sơn nằm ở hữu ngạn sông Ngàn Phố ở vị trí giữa hói Nầm và Cửa Khâu. Núi Sinh Cờ hay Tinh Cờ, Thinh Kỳ ở thông tứ Mỹ, xã Lạc Phố. Trên núi có khối đã Đầu Voi, nơi Bình Định vương Lê Lợi dụng cờ. Trên mái núi có hang Khái chứa lương thảo do nhân dân đóng góp giúp đỡ nghĩa quân Lam Sơn. Chính vì vậy, núi này còn được gọi là núi Phù Lê. Ở vùng Kẻ Sét, trên đường thượng đạo xưa, nghĩa quân Lam Sơn tận dụng địa hình đồi núi đắp thêm thành lũy tao thành doanh trại, bên trong bố trí nhiều công trình như tàu voi, tiện phòng ngự, dễ phản công. Lúc đầu mới vào huyện Đỗ Gia, Lê Lợi lấy động Tiên Hoa nằm sâu trong khu căn cứ làm nơi đặt đại bản doanh và bộ chỉ huy của nghĩa quân. Những năm sau đó, do lực lượng nghĩa quân ngày càng lớn mánh về mọi mặt và đã chiến thắng nhiều cuộc tấn công của quân Minh xuất phát từ thành Nghệ An, Bộ chỉ huy quyết định chuyển đại bản doanh và Sở chỉ huy lên thành Lục Niên [4] – nơi địa đầu của khu căn cứ Đỗ Gia được đặt trên ngọn Hoàng Tâm có sông Lam, sông La, sông Ngàn Phố chắn ở ba phía. Đỉnh núi này cũng là điểm cao nhất của thành Lục Niên, xưa kia nghĩa quân có thể quan sát rõ bằng mắt thường thành Nghệ An và hiện nay khi đep trời không có mây mù chúng ta có thể thấy rõ toàn cảnh thành phố Vinh (Nghệ An). Điều này cho thấy nghĩa quân lựa chọn địa điểm này là hợp lý; đã có bước chuyển mình từ rõ rệt từ bị động sang chủ động phản công thành Nghệ An. Hỗ trợ cho thành Lục Niên là hệ thống công sự, kho tàng, bến bãi, đường sá vệ tinh mà hiện nay mới chỉ bước đầu khảo sát thực địa trong vòng bán kính 1km của thành đã phát hiện được nhiều di tích như vậy như những nền móng kiến trúc cổ mà đặc biệt có một di tích còn khá nguyên vẹn là Chùa Côn Sơn. Nghĩa quân đặt đồn ở núi Rộc (Độc Sơn) ở gần địa điểm chùa Côn Sơn để canh giữ đường truông Mèn, lối vào căn cứ Đỗ Gia qua đường thượng đạo, hiện đang có di tích trên núi. Xung quanh Chùa Côn Sơn còn có “xóm Côn Sơn”, “khe Nhị Khê”. Đường truông trảy, qua thung lũng khe Sâu vào Kẻ Trảy – làng Tri Lễ, xã Sơn Tiến – Hương Sơn ngày nay có hệ thống chiến lũy đắp bằng đất đá thấp trung bình khoảng một mét chạy dọc ngọn núi Ngũ Mã, Động Chủ, núi Trọ Voi (Sọ Voi) trên dãy Thiên Nhẫn, nằm ở đường biên giới phân thủy giữa Nghệ An và Hà Tĩnh, chắc xưa kia có đồn trại. Ở bến Tam Soa, Đinh Lễ chốt giữ cửa sông Ngàn Phố, con đường thủy duy nhất lên căn cứ Đỗ Gia. Phía đông Tùng Lĩnh có Đinh Liệt canh gác ở Võ Lâm. Năm 1925, có viện binh, Trần Trí, tướng nhà Minh quyết định đanh lên căn cứ Đỗ Gia hòng tiêu diệt bộ chỉ huy nghĩa quân Lam Sơn. Nghĩa quân “đào cửa sông, phục quân bên bờ sông, đợi quân giặc đến đánh” ở vị trí giữa Cửa Khâu và cửa hói Nầm phía trên gây thiệt hại nặng nề cho quân địch, buộc địch phải tháo chạy, lại bị quân của Đinh Lễ phục kích một lần nữa ở Cồn Tổng Binh, xã Xa Lang, thuộc xã Tân Mỹ Hà – Hương Sơn ngày nay. Như vậy, căn cứ Đỗ Gia là bất khả xâm phạm, cơ sở cho nghĩa quân Lam Sơn cũng cố lực lượng ngày càng vững mạnh, tạo đà cho cuộc tiến công hoàn thành việc giải phóng đất nước, thoát khỏi ách đô hộ của giặc Minh. [5]
Tài liệu viết về Chùa Côn Sơn không nhiều, nhưng theo văn hóa dân gian địa phương thì ngày xưa địa điểm này là nơi cất dấu lương thực, của cải, vũ khí chiến đấu của nghĩa quân Lam Sơn. Sau khi đất nước trở lại thái bình, Nguyễn Trãi đã cho xây dựng lại Chùa Côn Sơn tại vị trí này như một đền đáp giành cho nhân dân đã cưu mang, giúp đỡ nghĩa quân trong lúc gian khổ chiến đấu chống quân Minh ở mảnh đất này.
Ngôi chùa trước đây mới được xây dựng là để thờ Phật. Để tưởng nhớ công ơn của Nguyễn Trãi đối với dân, với nước, sau khi vợ chồng ông mất, nhân dân địa phương đã tạc tượng thờ bên cạnh tượng Phật.
Hàng năm, đến ngày sóc vọng, tến nguyên tiêu, nhân dân địa phương và những người mộ đạo đến Chùa Côn Sơn thắp hương, cầu mong được hạnh phúc, quốc thái, dân an.
Chùa Công Sơn tọa lạc trong một khuôn viên rộng hơn 6.500m2. Xung quanh có nhiều cây cối bao bọc, phía sau là đồi núi thoai thoải tạo nên sự u tịch, nền nã và thâm nghiêm ở chốn cửa Phật. Trước đây, chùa là một điện thờ Phật bố trí theo chiều dọc, kiến trúc theo lối nhà kẻ được chia làm 3 gian, bốn vì được nối lại với nhau bởi các xà tạo nên một bộ khung chịu lực tương đối vững chắc. Phía tả và hữu của cột quân có các nghé bẩy và bẩy hiên vươn mình ra xa đỡ lấy mái làm tặng thêm không gian cho ngôi nhà. Phía trên lợp ngói mũi, xung quanh được bao bọc bởi những bức tường gạch được kết dính bằng vữa tam hợp. Phật điện cao 3,70m, mặt bằng tổng thể 32,50m2 (dài 6,5m, rộng 5m), được 18 cột đứng trên các hòn kê bằng đá núi hình tròn gọt đẻo công phu chống đỡ, trong đó có 2 cột quyết được xây bằng gạch vôi vữa, 8 cột quân bằng gỗ mít (cao 2,20m, đường kính 0,18m), 6 cột cái (cao 2,80m, đường kính 2,20m và 2 cột trốn. Trên mặt cột quyết có đôi câu đối bằng chữ Hán:
Phiên âm
Phật hiệu nhất xưng phi nghiệp chướng
Từ bi nhị tự cứu quần sinh
Dịch nghĩa
Đến với cõi Phật mọi nghiệp chướng sẽ tiêu tan
Bằng hai chữ từ bi cứu vớt chúng sinh
Xét về mặt kiến trúc đáng chú ý là bộ vì kèo thứ ba được tạo tác theo biến thể chồng rường nhưng không có đấu với những tấm ván dày xếp chồng lên nhau lấp đầy vỉ ruồi tạo nên một sự vững chãi nhất định cho cả ngôi nhà. Để tạo không gian rộng rãi tiện cho việc hành lễ, vì kèo thứ hai được cấu tạo khác với các vì kèo còn lại. Đó là các cột cái nhường chỗ cho các cột trốn đặt trên đấu vuông thót đáy được các xà dọc đỡ trọng lượng từ trên đè xuống. Mười hoành tải và một thượng lương thẳng tắp cùng với các thanh mè phân bố đều khắp hệ mái, trên đó lợp ngói mũi. Cuối mỗi mái được các ván tàu chốt chặn gọn gàng, vững chắc.
Xét về mặt điêu khắc thì Chùa Côn Sơn có nhiều điều để nói. Chùa không có nhiều tác phẩm điêu khắc nhưng những tác phẩm điêu khắc đó, cụ thể là 8 pho tượng trong tư thế ngồi thiền xếp bằng trên đài sen được sơn son thếp vàng, do thời gian và thời tiết đã làm tróc sơn lộ ra những xương gỗ xám đen, có giá trị về nghệ thuật, cổ vật và đang chờ những nhà nghiên cứu có hiểu biết sâu về nghệ thuật Phật giáo Việt Nam nghiên cứu làm sáng tỏ. Trong 8 pho tượng cổ có 6 pho tượng Phật được bàn tay nghệ nhân dân gian tài năng gọt đẽo, thổi hồn thành những khuôn mặt cân đối, đầy đặn, hài hòa giữa các chi tiết toát nên vẽ từ bi phổ độ, cứu vớt chúng sinh được đặt ở bàn thờ giữa. Hai pho tượng còn lại là tượng Nguyễn Trãi đội mũ cánh chuồn, hai mắt nhìn về phía trước biểu lộ được sự thông minh, uyên bác vốn có, được đặt ở bàn thờ bên tả và tượng Nguyễn Thị Lộ trông hiền thục, phúc hậu đặt ở bàn thờ bên hữu.
Nhìn từ ngoài vào trong, điện Phật gồm ba gian nhưng chỉ có gian trong cùng dùng để đặt bàn thờ chia thành ba dòng, bàn thờ giữa phân thành các cấp cao dần. Dòng chính giữa dùng để thờ Phật, trên cấp cao nhất đặt tượng tam thế. Cấp thấp hơn đặt các tượng Phật còn lại. Dòng bên tả đặt tượng Nguyễn Trãi và dòng bên hữu đặt tượng Nguyễn Thị Lộ. Còn hai gian còn lại được sử dụng như là bái đường là nơi để các tín đồ, du khách và nhân dân hành lễ.
Nhìn chung, Chùa Côn Sơn là một cổ tự còn giữ được nhiều yếu tố gốc có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học cần được gìn giữ, nghiên cứu và phát huy.
Hiện này, Chùa Côn Sơn được tu bổ, tôn tạo với mặt bằng kiến trúc lối chữ Nhị (二) bao gồm thượng điện và hạ điện. Thượng điện là ngôi nhà có kết cấu kiến trúc bằng gỗ, mái kiểu chồng diêm (hai tầng, tám mái). Mặt cổng tam quan phía trong khắc đôi câu đối bằng chữ Hán:
Phiên âm:
Thiên Nhẫn thiên niên lưu thắng địa
Chí Linh cựu tích diệc hà thù
Dịch nghĩa:
Thiên Nhẫn ngàn năm là vùng đất đẹp
Chí Linh dấu cũ khác gì đâu
2. Chùa Côn Sơn thờ Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ
Nguyễn Trãi (1380 – 1442) là một nhà chính trị, nhà văn, nhà thơ, nhà ngoại giao, nhà địa lý học, khai quốc công thần của nhà Hậu Lê, Danh nhân văn hóa thế giới; hiệu Ức Trai, quê xã Chi Ngại, huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang (nay là huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương), sau dời về Nhị Khê (huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội). Nguyễn Trãi là con trai đầu trong năm người con của Nguyễn Ứng Long và Trần Thị Thái, con gái của Trần Nguyên Đán [6], một quý tộc nhà Trần. Cha ông là một học trò nghèo, học giỏi, đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ). Lúc nhỏ, Nguyễn Trãi được cha ra công rèn cặp. Lên 6 tuổi, mất mẹ, cha ông ở rễ nhà ngoại. Lên 10 tuổi ông ngoại qua đời, ông về ở Nhị Khê, nơi cha dạy học. Ngày 18 tháng 2 năm Canh Thìn (1400), Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần lập ra nhà Hồ, lấy quốc hiệu là Đại Ngu, Nguyễn Ứng Long đổi tên là Nguyễn Phi Khanh và ra nhậm chức Đại lý thị lang tòa trung thư, Hàn lâm viện đại học sĩ, kiêm linh chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Cũng trong năm này, nhà Hồ mở khoa thi và Nguyễn Trãi đỗ Thái học sinh (tiến sĩ), lúc đó ông mới 20 tuổi. Sau đó, ông được trao chức Ngự sử đài chánh trưởng. Khi nhà Minh cho quân xâm lược và thôn tính nước ta, Nguyễn Phi Khanh bị bắt, đưa sang Trung Quốc. Nguyễn Trãi và một người em đi theo chăm sóc. Theo lời giáo huấn của cha: “Con là người có học, có tài, nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha” nên ông trở về nhưng bị quân Minh bắt giữ. Ông bị quân Minh dụ dỗ ra làm quan nhưng ông từ chối và họ đinh ám hại ông nhưng Hoàng Phúc biết ông là người có tài nên tha và giam lỏng ông ở Đông Quan. Trong lòng giận quân Minh, ông muôn tìm một minh chúa để phụng sự. Sau 10 năm phiêu dạt nơi chân trời góc bể, đến năm 1417, ông đến Lỗi Giang bên bờ sông Mã tìm Bình Định Vương Lê Lợi, thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và trao Bình Ngô sách trong đó có kế hoạch đánh quân Minh. Lê Lợi thấy hay, dùng ông làm tham mưu và phong ông cho chức Tuyên phong đại phu Thừa chỉ Hàm lâm viện, ngày đêm dự bàn việc quân. Suốt 10 năm chiến đấu, ông có đóng góp công lao vào chiến thắng vẻ vang của dân tộc. Ông trở thành mưu sĩ “hiến mưu chước lớn không nói đến việc đánh thành mà lại nói đến việc đánh vào lòng người...”. Đánh vào lòng người là phải dựa vào dân, phải phát huy tinh thần yêu nước, sức mạnh đoàn kết, quyết tâm đánh giặc của toàn dân. Đó là một tư tưởng lớn vạch ra đường lối chính trị và đường lối quân sự nhằm tổ chức một cuộc chiến tranh nhân dân yêu nước chống ngoại xâm. Kể từ đây, ông trở thành một nhà chiến lược quân sự, một nhà ngoại giao địch vận đại tài của nghĩa quân Lam Sơn, góp công lớn vào việc giành lại quyền độc lập, chủ quyền và hòa bình cho đất nước.
Tượng Nguyễn Trãi, tại Chùa Côn Sơn (Hà Tĩnh)
Đầu năm 1428, sau khi quyét sạch quân thù, Nguyễn Trãi giúp vua xây dựng lại nước nhà. Ông tiếp tục phục vụ dưới triều đại vua Lê Thái Tổ và Lê Thái Tông với chức vụ Nhập nội hành khiển và Thừa chỉ. Dưới thời vua Lê Thái Tông, Nguyễn Trãi được vời ra làm quan giúp triều đình là những năm đắc chí nhất của Nguyễn Trãi bởi ông đã chứng kiến được một ông vua trẻ nắm quyền hành, thẳng tay trừng trị bọn quyền thần đục khoét nước, hại dân. Nhưng ông đã bị nghi oan và bị bắt giam. Sau đó, ông được tha, nhưng không được tin cậy như trước. Do vậy, ông đã cáo quan, luy về Côn Sơn sinh sống trong khoảng thời gian 1438 – 1440. Năm 1440, vua Lê Thái Tông mời ông trở lại và giao cho nhiều trọng trách quan trọng. Và chính lúc này, Nguyễn Trãi cũng là đối tượng của sự ám hại và vụ án đầy oai sai Lệ chi viên xảy ra ở Bắc Ninh.
Vụ án xẩy ra khi vua Lê Thái Tông đi tuần ở miền Đông. Mồng 01 tháng 9 năm 1442, sau khi vua duyệt bình ở thành Chí Linh, Nguyễn Trãi đón vua vào chơi ở chùa Côn Sơn [7] . Ngày 07 tháng 9 năm 1442 khi trở về Đông Kinh nhà vua cùng Nguyễn Thị Lộ (vợ Nguyễn Trãi) đến Lê Chi Viên (Vườn vải) thì bị bệnh rồi băng hà. Bọn gian thần vu ông và vợ giết vua, khép ông vào tội tru di tam tộc vào ngày 19 tháng 9 năm 1442. Sau khi mất, đa phần di cảo của ông đã bị thiêu hủy, đa phần người thân, ruột thít phải phiêu bạt lánh nạn khắp nơi khỏi bị truy bức. Hơn 20 năm sau, vào năm 1464, nổi oan ấy, vua Lê Thánh Tông mới giải tỏa, đại xã cho Nguyễn Trãi, truy tặng ông tước hiệu Tán Trù bá và bãi bỏ lệnh truy nã người thân của Nguyễn Trãi. Đặc biệt, Nguyễn Anh Vũ là người con trai của Nguyễn Trãi và vợ thứ 4 là Phạm Thị Mẫn lúc đó thi đỗ Hương cống được bổ ra làm quan Tri huyện. Các trước tác của ông được sưu tầm. Năm 1512, vua Lê Tương Dực truy tặng ông tước Tế Văn hầu.
Ngoài là người anh hùng dân tộc, Nguyễn Trãi còn là nhà văn, nhà thơ lớn. Bình Ngô đại cáo là tác phẩm lấy lời Lê Lợi tổng kết 10 năm chiến đấu chống quân Minh của quân và dân nước ta, tuyên bố về cuộc kháng chiến chính nghĩa chông lại sự bành trướng, xâm lược của quân Minh, về cuộc chiến đấu gian khổ để đi đến ca khúc khải hoàn giành lại hòa bình cho đất nước. Tác phẩm Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi là tập hợp những lá thư và những giấy tờ gửi các tướng của nhà Minh nhằm thực hiện kế sách công tâm (đánh vào lòng người). Tác phẩm Lam Sơn thực lục của ông là cuốn sách ghi lại lịch sử của cuộc kháng chiến chống quân Minh của quân và dân ta. Tác phẩm Dư địa chí viết về địa lý lịch sử nước ta. Chí Linh sơn phú là tác phẩm ghi lại của kháng chiến gian khổ chống quân Minh. Tất cả tác phẩm này đều được viết bằng chữ Hán.
Về thơ, Nguyễn Trãi có cuốn Ức trai thi tập bằng chữ Hán, Quốc âm thi tập bằng chữ Nôm. Đó là tập thơ được sáng tác trong suốt cuộc đời, đặc biệt là khoảng 10 năm tìm đường và thời gian ở Côn Sơn. Thờ Nguyễn Trãi thể hiện tình yêu thiết tha với quê hương từ những điều bình dị nhất xung quanh mình. Tình yêu đối với bà con thân thuộc với bao nỗi niềm khi xa quê, xa người thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, đánh đuổi quân thù.
Nguyễn Trãi qua đời vào ngày 19 tháng 9 năm 1442. Sau đó, nhớ đến công ơn của ông đối với quê hương đất nước, đặc biệt là những tháng ngày “nằm gai, nếm mật” của ông tại mãnh đất Đỗ Gia, đề ra những mưu lược, quyết sách cho Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn chống trả lại sức mạnh của quân Minh, người dân xã Sơn Tiến đã tạc tượng thờ ông và vợ ông là Nguyễn Thị lộ tại Chùa Côn Sơn, ngày đêm hương khói.
Như vậy, Chùa Côn Sơn là di tích có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học. Di tích là một trong những minh chứng đáng tin cậy cho truyền thống yêu nước lâu đời của nhân dân địa phương. Nơi đây khoảng 6 thế kỷ về trước chứng kiến nghĩa quân Lam Sơn dưới sự lãnh đạo của người anh hùng áo vải Lê Lợi và nhà chiến lược quân sự tài năng Nguyễn Trãi chiến đấu chống quân Minh xâm lược. Di tích cùng với thành Lục Niên và một số di tích khác chứng kiến bước chuyển biến chiến lược quan trọng từ phòng thủ sang phản công. Nghĩa quân đã lấy vùng đất Đỗ Gia làm bàn đạp để tấn công thành Nghệ An, đập tan bộ máy chính quyền đô hộ nơi đây, rồi từng bước giải phóng phần còn lại của đất nước./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Duy Báu (Chủ biên - 2016), Lịch sử Hà Tĩnh, Tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
2. Trần Phi Công (2005), Hồ sơ Di tích lịch sử - văn hóa Chùa Côn Sơn, xã Sơn Tiến, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Hà Tĩnh.
3. Thái Kim Đỉnh (2017) Chùa cổ Hà Tĩnh, Nxb Đại học Vinh, Nghệ An.
4. Thái Kim Đỉnh (2015), Địa chí huyện Hương Sơn, Nxb Lao Động, Hà Nội
5. Bùi Thiết (2000), Từ điển Hà Tĩnh, Sở VHTT Hà Tĩnh.
Chú thích:
1. Đại Việt sử ký toàn thư, q.III, tờ 20.
2. Đặng Duy Báu (Chủ biên – 2016), Lịch sử Hà Tĩnh, tập 1, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự Thật, Hà Nội, tr.169-170.
3. Đặng Duy Báu (Chủ biên – 2016), Lịch sử Hà Tĩnh, tập 1, sđd, tr. 160 – 164.
4. Tên thành Lục Niên là do Lê Lợi đặt để kỷ niệm 6 năm chiến đấu chống quân Minh hay cung có thuyết cho 6 năm là tính từ khi Lê Lợi dấy bình khởi nghĩa cho đến khi tiến vào Nghệ An. Thành hình chữ nhật, không lớn, mặt tây dựa vào núi, ba mặt ghép đá, hiện nay dâu tích còn rõ như các con đường rộng, các hố tròn mà nhân dân địa phương còn gọi là “vụng voi đạp ló”, “vụng voi mẹp” và các kho tàng cất giữ binh lương của nghĩa quân.
5. Thái Kim Đỉnh (Chủ biên - 2015), Địa chí Hương Sơn, Nhà xuất bản Lao Động, Hà Nội, tr.201 - 203.
6. Trần Nguyên Đán là một tôn thất, lại là đại thần nhà Trần, không chống lại Hồ Quý Ly mà gửi gắm con cháu mình cho Hồ Quý Ly.
7. Chùa Côn Sơn ở đây không phải ở xã Sơn Tiến – Hương Sơn – Hà Tĩnh mà huyện Chí Linh – Hải Dương. Như vậy có 2 chùa mang tên Côn Sơn.