Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Di tích Nhà thờ Nguyễn Văn Vựng, Nguyễn Văn Hội thuộc xóm 2, thôn Văn Sơn, xã Đỉnh Bàn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Dưới thời vua Tự Đức nhà Nguyễn, địa danh này thuộc xã Kiều Mộc, tổng Hạ Nhị, huyện Thạch Hà, phủ Hà Thanh, tỉnh Hà Tĩnh [1]. Di tích nhằm dưới chân núi Nam Giới. Trước thế kỷ XI, vùng đất từ núi Nam Giới đến Hoành Sơn là phên dậu của Đại Việt với Chiêm Thành. Thủa ấy, dưới chân núi Nam Giới hãy còn hoang vu, đất rộng người thưa, xa cách trung tâm trung ương phong kiến tập quyền. Sang đến thời Lý, với sự kiện năm 1025, nhà Lý lập trại định phiên tại núi Nam Giới. Đến thời Trần (1225 – 1400), các cộng đồng làng xã hình thành ở lưu vực sông Rào Cái vòng dưới chân núi Nam Giới.
Từ cuối đời Lý đầu đời Trần, nhiều dòng họ và cộng đồng người dân lần lượt đến vùng Thạch Hà định cư. Cuối đời Trần đến đời Hồ, rồi trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược, thì số người từ lưu vực sông Hồng, sông Mã, bắc sông Cả, di cư vào vùng nam Nghệ An (Hà Tĩnh ngày nay) ngày càng đông. Dưới các triều Lê – Nguyễn (thế kỷ XV- thế kỷ XX), người từ phía Bắc tiếp tục di cư ngày càng đông, công cuộc khai hoang, lập ấp được tiến hành liên tục, dân số tăng nhanh.
Trong số các dòng họ đến vùng đất này sinh cơ lập nghiệp có sự đóng góp của họ Nguyễn Văn. Theo gia phả dòng họ có từ năm 1906, dòng họ Nguyễn Văn ở Đỉnh Bàn cũng di cư từ Hải Dương vào Hà Tĩnh đến Đình Hòe, Kiều Mộc 15 đời mà không có gia phả. Mãi đến năm Thành Thái thứ 7 (1905) mới làm nhà thờ họ đến nay đã truyền nối phát triển 15 đời.
Dòng họ Nguyễn Văn xã Đỉnh Bàn có thủy tổ là Nguyễn Văn Thùy. Ông bà có 4 người con trai là Nguyễn Văn Bài, Nguyễn Văn Thì, Nguyễn Văn Phi và Nguyễn Văn Ngạn. Kể từ đây, dòng họ chia làm 4 chi cùng nhau dựng nghiệp và phát triển dòng họ, chung lòng góp sức xây dựng quê hương Kiều Mộc, đóng góp công lao bảo vệ nước nhà. Dòng họ có nhân vật tiểu biểu là Nguyễn Văn Vựng và Nguyễn Văn Hội. Cả hai người đều có công trong hàng ngũ quân đội thời Lê, Nguyễn.
Nhân vật Nguyễn Văn Vựng
Nguyễn Văn Vựng là ông tổ sáu đời của họ Nguyễn Văn. Ông sinh ra và lớn lên vào giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII. Thuở nhỏ, ông là người thông minh, lanh lợi, ham hiểu biết, có vóc dáng to lớn, khỏe mạnh, thích võ nghệ. Lớn lên tham gia quân đội dưới triều vua Lê Hiển Tông, vị hoàng đế trị vì lâu dài nhất thời nhà Lê Trung Hưng suốt 46 năm từ 1740 đến 1786. Do có nhiều công lao đối với triều đình, lại giỏi võ nghệ nên ông được bổ nhiệm làm quan Cấm Y vệ để bảo vệ nhà vua. Nhà vua trọng dụng ông bởi nhan sắc, tướng mạo đẹp đẽ; đức tính ngay thẳng thật thà và sự hiểu biết sâu rộng. Ông mất ngày 09 tháng 02 (không nhớ năm mất). Nhà vua đã cấp tiền tự tuất và cho binh lính cùng thầy địa lý đưa thi hài ông về an táng tại quê nhà [2].
Nguyễn Văn Vựng là người có nhiều công lao với nước, với dân; sau khi mất thường hiển linh “hộ quốc tỷ dân”, cứu giúp dân lành, nên nhân dân trong vùng đã tôn ông là thành hoàng của làng và được rước linh vị về thờ tự tại đền Văn Sơn. Trong bài văn tế ở đền Văn Sơn có đoạn ghi:“...Đương cảnh Thành hoàng bản thổ chính thần hiển ứng uy linh Trung đẳng thần Nguyễn Văn Vựng chứng giám…”[3].
Qua sắc phong vua ban cho Nguyễn Văn Vựng, cho thấy ông là người có nhiều công lao phù trợ cho đời sống vật chất và tinh tần nên được thờ làm thành hoàng làng. Vua Thành Thái ban tặng sắc phong cho ông là Trung đẳng thần và giao cho dân làng Văn Sơn thờ phụng. Tại nhà thờ Nguyễn Văn Vựng còn đang lưu giữ được 1 đạo sắc phong thần cho ông, với nội dung như sau:
Phiên âm:
Sắc Hà Tĩnh tỉnh, Thạch Hà huyện, Kiều Mộc xã, phụng sự Đương cảnh thành hoàng chi thần (húy Văn Vựng), từng hộ quốc tỷ dân nậm trứ linh ứng.
Hướng lai vị mông ban cấp sắc văn. Tứ kim phi thừa mệnh, khiển tướng xuất sư, vũ công cáo thành, thần hưu tí bí, trứ phong vi Đôn ngưng Dực bảo Trung hưng chi thần. Đặc chuẩn nhưng cựu phụng sự, thần kỳ tương hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai!
Thành Thái thập niên lục nguyệt sơ nhất nhật.
Dịch nghĩa:
Sắc ban cho xã Kiều Mộc, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh phụng thờ thần Đương cảnh Thành hoàng (húy Văn Vựng), phù giúp đất nước, che chở nhân dân rất là linh ứng, thế nhưng từ trước đến nay chưa được ban cấp sắc văn. Nay, Trẫm gánh vác mệnh lớn, điều tướng xuất sư, võ công đã thành, thực nhờ ơn thần giúp rập. Nên đặc biệt phong cho thần là Đôn ngưng Dực bảo Trung hưng, chuẩn cho phụng thờ như trước, thần hãy che chở, giúp đỡ và bảo vệ cho muôn dân của ta. Kính thay!
Ngày mùng 1 tháng 6 năm Thành Thái thứ 10 (1898) [4].
Như vậy, căn cứ vào bản sắc phong của vua ban và bài văn cúng tại đền Văn Sơn có thể khẳng định rằng, ông Nguyễn Văn Vựng sau khi mất đã được nhân dân tôn thờ làm thành hoàng của làng là sự tôn vinh những công lao đóng góp và sự hiển linh phù trợ của ông đối với dân làng. Gia phả của dòng họ Nguyễn Văn phần nào đã phản ánh được công trạng của ông trong quá trình phục vụ trong quân đội và những công lao đóng góp của ông đối với dân làng suốt tiến trình lịch sử. Tất cả đã chứng tỏ sự tôn kính của nhân dân đối với những công lao to lớn mà lúc sống ông đã đóng góp cho dân, cho nước và khi mất đi ông vẫn tiếp tục che chở, giúp đỡ cho nhân dân được sống yên bình.
Nhân vật Nguyễn Văn Hội (1794 – 1864)
Vào đầu thế kỷ XIX, năm 1802, sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh thống nhất đất nước và lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu là Gia Long lập nên nhà Nguyễn. Tuy nhiên, vào nửa đầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn vấp phải sự nổi dậy từ nhiều lực lượng chống đối khắp nơi và diễn ra liên tục. Số lượng các cuộc nổi dậy chống lại triều đình kể từ năm 1802 cho tới năm 1862 có đến 500 cuộc lớn nhỏ các loại, riêng thời Minh Mệnh có khoảng 250 cuộc, thời Thiệu Trị 50 cuộc…Phong trào miền xuôi có cuộc nổi dậy của Vũ Đình Lục ở vùng đồng bằng Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ, Nguyễn Đức Khoa, Tổng Thái, Tú Bích ở Kinh Bắc, Nguyễn Thế Chung, Phan Bá Vành ở Sơn Nam, Nguyễn Trấn, Lê Hữu Tạo, Ninh Đăng Tạo, Phan Bô ở Nghệ An …[5] . Trong số các cuộc nổi dậy kể trên có các cuộc nổi dậy liên quan đến vấn đề tôn giáo, các phong trào phù Lê diệt Nguyễn. “Ngoài Bắc, một phần nhân tâm còn luyến tiếc Lê triều vẫn chờ dịp nổi lên chống lại nhà Nguyễn và để khôi phục lại dòng họ Lê”[6]. Các toán cướp nổi lên ở nhiều địa phương. Một số dân nghèo thông đồng với quân lưu manh, thảo khấu nổi lên chống đối làm nhà Nguyễn điêu đứng, nhưng vì tổ chức lỏng lẽo, kỷ luật không nghiêm, không thống nhất trong hành động nên đều bị thất bại [7]. Ý thức được nguy cơ trên cùng với nhiều mối lo khác, sau khi thiết lập được vương triều, nhà Nguyễn chú trọng đến xây dựng một lực lượng quân đội vững mạnh nhằm đối phó với ngoại xâm và đánh dẹp các cuộc nổi dậy gây bất ổn tình hình chính trị xã hội, ảnh hưởng đến sự tồn vong của nhà Nguyễn và cuộc sống của nhân dân. Quân đội nhà Nguyễn có cơ cấu tổ chức khá chặt chẽ gồm có lực lượng chính quy và một lực lượng bảo vệ kinh đô Phú Xuân. Hệ thống tổ chức và biên chế được chia thành doanh, dưới doanh là vệ, dưới vệ là đội, dưới đội là thập và ngũ. Doanh biên chế 5 vệ. Vệ biên chế 10 đội, đứng đầu là vệ úy. Đội biên chế 5 thập, đứng đầu đội là suất đội. Thập biên chế 10 ngũ do chánh đội trưởng chỉ huy. Ngũ gồm 5 người do ngũ trưởng chỉ huy. Đi theo tiếng gọi “trung quân ái quốc”, Nguyễn Văn Hội đã tham gia quân đội nhà Nguyễn với lý tưởng bảo vệ tổ quốc trước họa xâm lăng của ngoại bang Sau khi gia nhập quân đội, ông được bổ nhiệm nhiều chức vụ quan trọng có công lớn trong việc ổn định tình hình xã hội đang còn rối ren trước sự nổi dậy quấy phá của nhiều lực lượng gây bất ổn xã hội và nhũng nhiễu nhân dân và làm cho vương triều lung lay.
Nguyễn Văn Hội là con trai thứ tám của Nguyễn Văn Quỳnh và Bùi Thị Thai. Ông thuộc đời thứ 5 của dòng họ Nguyễn Văn ở Thạch Đỉnh, vợ là Nguyễn Thị Canh. Ông sinh năm Giáp Dần (1794). Sinh thời, là một người giàu lòng nhân ái, tính tình điềm đạm mà rất trung kiên; biết võ công do cha ông truyền dạy [8]. Trải qua nhiều năm phục vụ trong hàng ngũ quân đội, nhờ tài thao lược, mẫn cán trong công việc, lập được nhiều công tích, ông được triều đình phong chức Đội trưởng của Đội 4 thuộc vệ Minh Vũ, doanh Thần Cơ. Hiện tại, trong nhà thờ Nguyễn Văn Hội còn đang lưu giữ được 4 văn bản chữ Hán gốc phong cho Nguyễn Hội (tức Nguyễn Văn Hội), trong đó 1 bằng cấp cho giữ chức Ngoại úy Đội trưởng (1848), 1 bằng cấp cho giữ chức Đội trưởng (1851), 1 sắc phong cho giữ chức Thập đội trưởng (1857), 1 bằng cấp cho về nghỉ hưu giữ nguyên hàm Thập đội trưởng (1859).
Ngày 16 tháng 8 năm Tự Đức thứ 1 (1848), nhờ siêng năng, mẫn cán với công việc, Nguyễn Văn Hội được quan Tuần phủ Hà Tĩnh [9] tin tưởng giao cho đảm nhiệm chức Ngoại úy Đội trưởng để làm nhiệm vụ xứng tầm với chức vụ và trọng trách được giao ở vệ Minh Vũ, doanh Thần Cơ, trông coi, lãnh đạo, thống lĩnh binh lính trong đội. “Xét thấy, trong đội binh có Nguyễn Hội (tức Nguyễn Văn Hội – Tác giả) quê ở xã Kiều Mộc, tổng Hạ Nhị, huyện Thạch Hà làm việc đã nhiều năm lại rất siêng năng mẫn cán, đáng bổ sung vào chỗ khuyết ấy. Do đó, viết văn cấp bằng để bổ sung sai phái công việc phù hợp với bằng cấp. Vậy nên, sung biện cho y giữ chức Ngoại úy Đội trưởng của đội ấy thống lĩnh binh lính trong đội để cùng nghe theo viên Suất đội sự sai phái các công việc. Sau này phải tập hợp danh sách cho đầy đủ để trình lên cho chính danh phận. Nếu như bỏ bê công việc mà không mẫn cán thì sẽ có phép công để trị. Bằng cấp này phải đến tay người được cấp” [10].
Sau quá trình phấn đấu, Nguyễn Văn Hội chứng tỏ là người có năng lực thực sự được cấp dưới kính trọng, cấp trên tin tưởng. Ngày 26 tháng 5 năm Tự Đức thứ 4 (1851), quan Tuần phủ Hà Tĩnh nhận thấy những phẩm chất của Nguyễn Văn Hội nên bổ nhiệm ông vào chức Đội trưởng Đội 4 thuộc vệ Minh vũ, doanh Thần cơ. “Xét thấy, ở đội ấy có Nguyễn Hội (tức Nguyễn Văn Hội- Tác giả) quê ở xã Kiều Mộc, tổng Hạ Nhị, huyện Thạch Hà, phủ Hà Thanh từng được sung biện chức Ngoại úy Đội trưởng làm việc đã nhiều năm lại là người rất mẫn cán, đáng được sung bổ để sai phái thừa hành công việc. Do đó, tập hợp tất cả những kết quả của y từ trước đến nay để cấp bằng cho y giữ chức Đội trưởng của đội ấy thống lĩnh binh lính trong đội để cùng theo viên Suất đội sai phái các công việc. Sau này phải tập hợp đầy đủ danh sách về sự gia tâm cần mẫn hay bê trễ công việc mà trình lên. Nếu như lười nhác với công việc mà không mẫn cán thì sẽ có phép công để trị” [11].
Được sự tin tưởng của quan Tuần phủ Hà Tĩnh, Nguyễn Văn Hội đã lập nhiều công tích, lại có nhiều thâm niên, kinh nghiệm trong quân ngũ nên ông được vua Tự Đức, ngày 29 tháng 12, năm Tự Đức thứ 10 (1857), ban sắc phong chức Thập đội trưởng để ông toàn tâm toàn ý phát huy hết tài năng phụng sự đất nước và nhân dân. “Sắc ban cho: Nguyễn Hội (tức Nguyễn Văn Hội – Tác giả) được cấp bằng Thập đội trưởng của đội 4, vệ Minh vũ, doanh Thần Cơ,quê ở xã Kiều Mộc, tổng Hạ Nhị, huyện Thạch Hà, đạo Hà Tĩnh, tỉnh Nghệ An làm việc đến nay đã mãn khóa, lại được viên Cai tỉnh đề cử rõ ràng, nên chuẩn cho ngươi được bổ thụ làm Thập đội trưởng lĩnh suất thập binh để cùng nhau theo viên Suất đội sai phái các công vụ. Nếu như làm việc không chăm thì sẽ có phép chính để trị” [12].
Sau nhiều năm phục vụ trong quân đội lập nhiều thành tích trong việc bảo vệ đất nước, tiểu trừ những kẻ nổi dậy quấy phá góp phần ổn định tình hình chính trị, xã hội, đến lúc tuổi cao sức yếu, thể theo nguyện vọng của Nguyễn Văn Hội muốn được nghỉ ngơi, ngày 13 tháng 12, năm Tự Đức thứ 12 (1859), quan Tuần phủ quyền hộ An Tĩnh Tổng đốc đã cho phép ông trở về quê hương xã Kiều Mộc trí sĩ. Kể từ đây, ông kết thúc cuộc đời binh nghiệp của mình. “…viên đó (tức Nguyễn Văn Hội – Tác giả) tuổi cao sức yếu, khó kham được việc sai phái, nên xin lấy nguyên hàm được về hưu trí. Kính vâng chỉ chuẩn theo hồ sơ, lập tức thi hành ngay, cấp bằng cho viên ấy được về hưu trí ở xã Kiều Mộc, tổng Hạ Nhị, huyện Thạch Hà, đạo Hà Tĩnh” [13].
Sau khi trở về trí sĩ ở quê nhà, ông vẫn đóng góp công sức giúp đỡ nhân dân trong vùng Thạch Đỉnh, Thạch Bàn (huyện Thạch Hà ngày nay) thau chua rửa mặn, cải tạo ruộng đồng, tăng gia sản xuất nâng cao đời sống. Ông là chỗ dựa tinh thần cho mọi người trong làng xã. Ngày 23 tháng 3 năm Giáp Tý (1864), Nguyễn Văn Hội qua đời, hưởng thọ 70 tuổi. Mộ ông táng tại xứ Động Thấp, phía tây lòi cố Kỷ hướng lập quy đinh [14].
Nguyễn Văn Hội mất, con cháu dựng một ngôi miếu nhỏ thờ chung ông cùng với ông Nguyễn Văn Vựng trong phần đất hương hỏa của dòng họ Nguyễn Văn, ngày đêm hương khói. Đến năm 1936, con cháu xây dựng lại nhà thờ khang trang, hiện nay còn giữ nguyên hiện trạng.
Di tích đền thờ Nguyễn Văn Vựng và Nguyễn Văn Hội hiện nay tọa lạc tại xóm 2, thôn Văn Sơn, xã Đỉnh Bàn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Các công trình kiến trúc hiện có: nghi môn, tắc môn, nhà thờ, miếu thờ công chúa Mỹ Hoa, ban thờ ngoài trời, miếu thờ, nằm trong lô đất số 159, bản đồ địa chính số 22, loại 310 thuộc xóm 2 xã Thạch Đỉnh.
Nghi môn có trụ tiết diện hình vuông có kích thước (0,35m x 0,35m), đơn giản. Trên đỉnh mỗi cột gắn nghê chầu, thân cột trang trí đôi câu đối:
Phiên âm: “Cao đại khách xa mã
Danh nhân kế danh nhưng”
Nghĩa là: “Lớn bé khách lui tới
Danh nhân kế nhiều đời”
Hai bên cổng trụ gắn với hệ thống tường rào, cao 7,50m.
Cách nghi môn 2m là tắc môn, có kích thước cao 1,10m, rộng 1,80m, dày 0,25m. Tắc môn được đặt trên bệ xi măng dài 0,46cm, rộng 2,07m, mặt trước có đắp nổi hình con nghê. Hình tượng con nghê tại di tích nhà thờ Nguyễn Văn Vựng, Nguyễn Văn Hội được thiết kế đẹp, tinh xảo, thể hiện được nét uy nghi, linh hoạt, sống động, làm tăng thêm tính thiêng cho di tích.
Nhà thờ chính được xây dựng từ những năm 30 của thế kỷ XX, có kiến trúc khá đặc trưng, tiêu biểu của vùng biển ngang Thạch Hà. Dãy hành lang (dãy nhà hiên) có kích thước rộng 6,60m x 1,65m, được chia thành 3 gian. Phía trước dãy nhà hiên trổ 3 cửa hình chữ nhật có kích thước bằng nhau, cao 1,65m, rộng 1,40m. Phía trên cùng của cánh giữa đắp nổi bức cuốn thư đề 3 chữ Hán: “Nguyễn Văn tộc” (họ Nguyễn Văn). Hai bên bức cuốn thư là hình rồng chầu. Phần trang trí phía dưới bức cuốn thư và rồng chầu là 3 bức đại tự được viết bằng chữ Hán, có nội dung như sau:
Chính giữa: “ Nhân sinh do tổ”, nghĩa là người sinh ra có tổ tiên.
Phía trên cửa bên trái: “Ẩm hà tư nguyên”, nghĩa là uống nước nhớ nguồn.
Phía trên cửa bên phải: “Mộc bản thủy nguyên”, nghĩa là cây có gốc, nước có nguồn.
Thông giữa nhà hiên với nhà thờ trổ 2 cánh cửa gỗ được làm theo kiểu “thượng song, hạ bản”. Cửa chính giữa có kích thước rộng 1,40m, cao 1,80m, trên cửa chính là bức đại tự: “Đức lưu quang”, nghĩa là đức sáng mãi.
Hai cánh 2 bên cũng được làm theo kiểu “thượng song, hạ bản”, kích thước bằng nhau rộng 0,90m, cao 1,80m.
Nhà thờ chia thành 3 gian:
Gian giữa có kích thước: dài 1,90m, rộng 4,70m.
Gian trước có kích thước: dài 2,15m rộng 4,70m.
Gian sau cùng có kích thước: dài 2,10m, rộng 4,70m.
Bộ khung nhà thờ được dựng trên 2 hàng cột, 04 cột cái tròn, cao 3,10m, đường kính 0,28m; 8 cột hiên tròn gắn với tường, cao 2,30m, tất cả các cột đều được xây bằng vôi vữa xi măng.
Trên đỉnh là thượng lương là điểm nối của 2 vì kèo đấu nhau từ đỉnh xuống ăn mộng vào đầu cột cái, cùng với xà thượng rộng 0,24m. Xà thượng nối hai đầu cột cái trước và sau của thượng điện theo hàng ngang. Cột quân nối với các cột cái bằng vì kèo ngắn, tạo thành một tam giác vuông. Xà hạ chịu lực cho toàn bộ mái, nối các cột thành một đường thẳng.
Nhà thờ có hai mái lớn đổ bê tông nguyên tấm và lợp ngói mũi hài hình cánh sen. Ở hai đầu nóc gắn 2 phù điêu hình rồng quay đầu vào nhau, ở giữa là mặt trăng “Lưỡng long chầu nguyệt”.
Cuối mỗi góc mái gắn 4 con kìm nguýnh đầu hướng lên trên, đầu kìm được vuốt cong lên, mang ý nghĩa cầu cho mưa thuận gió hòa.
Nhà thờ chia làm 3 lối đi, cửa chính rộng 1,40, cao 2,00m; cửa tả, hữu rộng 0,90m cao 1,80m. Trên cửa chính treo bức hoành phi bằng xi măng khắc 3 chữ Hán “Đức lưu quang”, hai bên cột trụ khắc đôi câu đối:
Phiên âm: “Ca tụ đường môn đồng ý nguyện
Đăng đài ngọc trản kính tôn siêu”
Dịch nghĩa: Hội tụ, ca hát ở nơi từ đường cùng ý nguyện bát, chén ngọc dùng để tôn trọng kính dâng lên.
Dịch ý: Mọi người cùng nhau hội tụ vui vẻ ở nơi Từ đường, ai nấy đều chung một lòng ý nguyện;
Bát đặt trên đài son, lại thêm những chén ngọc để thể hiện sự tôn kính mà dâng lên.
Nền nhà mới được lát lại bằng gạch hoa. Các mảng tường phía sau của nhà thờ được tô vẽ trang trí các họa tiết rồng phượng uốn lượn trong mây rất sinh động. Đây là sản phẩm đặc trưng tiêu biểu của thợ Đình Hòe, Thạch Đỉnh còn lưu giữ được ở hầu hết các công trình kiến trúc nơi đây.
Bài trí nội thất nhà thờ: Gian thờ giữa nhà xây bàn thờ bằng gạch chia làm 5 cấp. Cấp trong cùng cao 1,10m, kích thước 0,95m x 1,35m. Hàng trên cùng đặt long ngai, bài vị của Nguyễn Văn Vựng và Nguyễn Văn Hội, phía sau long ngai là đôi kiếm gỗ. Trước long ngai là lư hương bằng đồng, hai bên có cọc nến.
Hàng thứ 2 cao 0,97cm, kích thước 0,73 m x 1,35m, chính giữa đặt 1 bát hương. Hàng thứ 3: cao 0,86m, kích thước 1,20m x 1,40m; Thứ 4 cao 0,64m kích thước 0,77m x 1,70m; Thứ 5, cao 0,86m kích thước 1,70 m x 0,50 m.
Gian thờ 2 bên tả, hữu có kích thước và cách bài trí giống nhau. Mỗi bên đều xây ban thờ bằng xi măng, chia làm 3 cấp sát vào hai bên hồi của nhà thờ. Cấp trong cùng cao 1,10m, kích thước 1,20m x 1,08 m. Trên ban thờ đặt một chiếc long ngai và 1 lư hương.
Cấp thứ 2 cao 0,88m, kích thước 1,80m x 0,70m, cấp thứ 3 cao 0,80m, kích thước 1,50m x 70m.
Miếu thờ tổ cô Nguyễn Thị Quế Hoa Nương, là con gái Tằng tồ khảo rất linh thiêng, được con cháu dòng họ Nguyễn Văn lập miếu thờ trong khuôn viên di tích. Miếu thờ được xây dựng từ khá lâu, đặt trên nền xi măng cao 0,40m mới được ốp gạch. Diện tích 2,60m x 200m, cao từ nền xi măng lên đến đỉnh cao nhất của mái ngói là 3,25m. Mái lợp ngói vảy, giật cấp 2 mái 8 góc mái đắp nổi hình rồng, chính giữa gắn hoa sen cách điệu. Mặt trước của miếu thờ trang trí khá sinh động. Hai cột hiên trước miếu được kê trên lưng 2 con rùa, thân cột trang trí họa tiết rồng leo. Trên mái hiên gắn “ lưỡng long chầu nguyệt”. Cánh cửa chính của am thờ cũng được làm theo kiểu “thượng song hạ bản”. Trên cửa chính đắp nổi bức cuốn thư được mở ra có 2 chữ Hán: “Đức tinh” nghĩa là “Đức sáng”. Hai bên cánh cửa trang trí họa tiết rùa đội hạc, miệng ngậm bông hoa sen. Bên trong am thờ được trang trí các họa tiết rồng mây.
Bài trí nội thất bên trong khá đơn giản: gồm có long ngai, 1 đôi sanh, lư hương, lọ hoa bằng gỗ, chân đèn gỗ.
Miếu thờ (gốc) Nguyễn Văn Vựng và Nguyễn Văn Hội: Đây là ngôi miếu cũ, thờ ông Nguyễn Văn Vựng và Nguyễn Văn Hội được xây dựng cách nay hàng trăm năm. Khi chưa xây dựng nhà thờ, để tỏ lòng biết ơn đến những công lao to lớn mà ông ông Nguyễn Văn Vựng, Nguyễn Văn Hội đã đóng góp cho quê hương. Con cháu trong dòng họ Nguyễn Văn đã lập nên ngôi miếu nhỏ này.
Ngôi miếu được đặt trên nền xi măng cao 0,45m. Diện tích 1,45m x 1,50m. Mái lợp ngói vảy 4 góc đắp nổi hình rồng. Cánh cửa trước của ngôi miếu được làm bằng gỗ, theo kiểu truyền thống thượng song, hạ bản. Trước cửa treo bức đại tự “ Càn khôn” nghĩa là “Trời đất”.
Hai bên khắc đôi câu đối bằng chữ Hán:
Phiên âm: “Đức thánh vân phong hữu nhật nguyệt
Phúc dân nhĩ trạch nhuận sơn hà”
Tạm dịch: “Đức thánh (như) mây gió, cùng nhật nguyệt
Dân hưởng phúc sâu rộng, thấm nhuần núi sông”
Bài trí nội thất bên trong cũng đơn giản: Đặt trên ban thờ chính giữa là long ngai bài vị, hai bên là cọc đèn và chiếc lư hương.
Nhà thờ Nguyễn Văn Vựng, Nguyễn Văn Hội là di tích lịch sử văn hóa có giá trị thờ hai nhân vật lịch sử có công tích lớn dưới hai triều đại Lê – Nguyễn được nhà nước phong kiến và nhân dân công nhận và vinh danh.
Di tích cũng là nơi sinh hoạt văn hóa chứa nhiều giá trị vật thể và phi vật thể. Tiêu biểu là truyền thống tín ngưỡng thờ thành hoàng của dân tộc Việt ở Bắc và Bắc Trung Bộ. Đây là nơi kết tinh các tập quán xã hội, cùng với nhiều di tích khác ở xã Thạch Đỉnh góp phần nghiên cứu bảo tồn và phát huy trong thời gian tới.
Nhà thờ Nguyễn Văn Vựng, Nguyễn Văn Hội là nơi lưu giữ nhiều các tư liệu Hán nôm gốc liên quan đến Đương cảnh thành hoàng Nguyễn Văn Vựng và Nguyễn Văn Hội, nguyên Đội trưởng đội 4 vệ Minh Vũ, doanh Thần Cơ. Ngoài ra, còn lưu giữ các bằng sắc của Hương kiểm Nguyễn Thân. Cùng với hệ thống đại tự, câu đối cổ tại di tích sẽ là nguồn sử liệu quý giá phục vụ cho công tác nghiên cứu lịch sử dòng họ Nguyễn Văn cũng như phong tục tập quán, tín ngưỡng, quan niệm thẩm mỹ, địa danh qua các thời kỳ, chức quan và tổ chức quân đội thời Nguyễn.
Nhà thờ Nguyễn Văn Vựng, Nguyễn Văn Hội trước đó được xây dựng tại một địa điểm khác, nhưng do sự tàn phá của thời gian nên đã bị xuống cấp nghiêm trọng. Tháng 11 năm 1936, nhà thờ được dời sang vườn đất họ ở phía nam vườn tộc trưởng. Trải qua 2 cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ nhà thờ cũng bị hư hỏng rất nhiều. Sau khi chiến tranh kết thúc, hòa bình lập lại con cháu trong dòng họ tiếp tục đóng góp tu sửa lại nhà thờ khang trang, to đẹp hơn.
Năm 2002, con cháu trong dòng họ tiếp tục đóng góp công sức tiền của tôn tạo lại nhà thờ, lát gạch và làm mái che. Từ khi xây dựng cho đến nay, di tích được con cháu trong dòng họ luân phiên nhau trông coi, bảo vệ.
Để bảo vệ và phát huy tốt các giá trị của di tích nhà thờ Nguyễn Văn Vựng, Nguyễn Văn Hội, cần thực hiện tốt một số phương án như sau:
Có kế hoạch sưu tầm các tài liệu hiện vật liên quan đến di tích để phục vụ cho công tác nghiên cứu giá trị của di tích. Đồng thời, UBND xã Thạch Đỉnh phối hợp với dòng họ Nguyễn Văn xây dựng phương án gắn tham quan du lịch danh lam thắng cảnh cùng với du lịch tâm linh ở vùng biển ngang Thạch Hà.
Hiện nay, với rất nhiều dự án du lịch được đầu tư mạnh mẽ ở khu vực biển ngang như khu du lịch Vinpearl Cửa Sót, Quỳnh Viên thì việc gắn di tích vào du lịch tâm linh ở khu vực này là điều hết quan trọng, nhằm góp phần quảng bá và phát huy được giá trị của di tích.
Với những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể như trên, Nhà thờ Nguyễn Văn Vựng, Nguyễn Văn Hội xã Đỉnh Bàn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh đã được UBND tỉnh Hà Tĩnh công nhận là di tích Lịch sử - Văn hóa cấp tỉnh tại Quyết định số 2680/QĐ-UBND, ngày 09 tháng 8 năm 2019.
Chú thích:
[1] Theo 4 bằng cấp nguyên văn chữ Hán năm Tự Đức thứ 1 (1848), năm Tự Đức thứ 4 (1851), năm Tự Đức thứ 10 (1857), năm Tự Đức thứ 12 (1859) hiện lưu giữ tại di tích.
[2] Theo Gia phả dòng họ Nguyễn Văn, xã Thạch Đỉnh, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, tr. 4
[3] Theo tập bài cúng lưu giữ tại đền Văn Sơn, xã Thạch Đỉnh, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
[4] Theo sắc phong nguyên văn chữ Hán đề năm Thành Thái thứ 10 (1898) cho Nguyễn Văn Vựng hiện lưu giữ tại di tích.
[5] Theo Đại cương lịch sử Việt Nam, Tập 1, Trương Hữu Quýnh chủ biên, Nxb Giáo dục, tr. 457, 458.
[6] Theo Phạm Văn Sơn (1960), Việt sử toàn thư, tr.421.
[7] Theo Đào Duy Anh (2002), Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX, Nxb Văn hóa Thông tin, tr. 483.
[8] Theo Gia phả dòng họ Nguyễn Văn, xã Thạch Đỉnh, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, tr.7.
[9] Quan Tuần phủ Hà Tĩnh là chức quan đứng đầu tỉnh Hà Tĩnh lúc bấy giờ.
[10] Theo bằng cấp chữ Hán cho Nguyễn Văn Hội, năm Tự Đức thứ 1 (1848) lưu tại di tích.
[11] Theo bằng cấp chữ Hán cho Nguyễn Văn Hội, năm Tự Đức thứ 4 (1851) lưu tại di tích.
[12] Theo sắc phong chữ Hán phong cho Nguyễn Văn Hội, năm Tự Đức thứ 10 (1857) hiện lưu tại di tích.
[13] Theo bằng cấp chữ Hán phong cho Nguyễn Văn Hội năm Tự Đức thứ 12 (1859) hiện lưu giữ tại di tích.
[14] Theo Gia phả dòng họ Nguyễn Văn, xã Thạch Đỉnh, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, tr. 9.