Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Nghề cào hến được biết đến là nghề truyền thống lâu đời ở làng Bến Hến, xã Trường Sơn, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Làng nằm khép mình bên bờ sông La hiền hòa, nơi nổi tiếng có hàng trăm hộ dân sinh sống bằng nghề cào hến. Tuy nhiều nỗi nhọc nhằn nhưng cái nghề đã đi theo họ từ bao đời, nuôi lớn bao nhiêu thế hệ học hành đỗ đạt thành tài.
Trường Sơn là xã nằm ngoài đê của huyện Đức Thọ, phía đông giáp xã Liên Minh, tây giáp sông Ngàn Phố và xã Tân Mỹ Hà, huyện Hương Sơn, phía bắc giáp xã Nam Kim, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An còn phía nam giáp xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ. Về địa lý xã Trường Sơn là nơi sơn thủy hữu tình, vừa có sông, có núi lại có cả đồng bằng. Phía tây là dãy núi Thiên Nhẫn, một trong hàng ngàn núi nhánh của dãy Trường Sơn hùng vĩ. Phía Tây Bắc của dãy núi này còn có nhiều ngọn núi khá dài, chiếm 35% diện tích đất tự nhiên của Trường Sơn. Với cái tên quen thuộc như: Rú Tằm, rú Kim Quy, rú Động Vợi, rú Gia Trại, rú Bãi Sậy…Xã gồm 1.995 hộ với 7.144 nhân khẩu phân bổ thành 10 khu dân cư trong đó có thôn Bến Hến với 185 hộ dân với 650 nhân khẩu (1), kinh doanh đa ngành nghề như đóng thuyền, mộc dân dụng, kinh doanh dịch vụ vừa và nhỏ… nhưng nổi bật nhất là truyền thống cào hến.
Trải qua hàng trăm năm lịch sử, nghề cào hến đã tồn tại trong cơ chế của nền kinh tế nông nghiệp với nền sản xuất nhỏ bé, nghề hến ở xã Trường Sơn có những nét độc đáo riêng, nó là hệ quả của cả một quá trình tạo dựng cơ nghiệp, sự cải tiến nghề dựa trên nền tảng trong không gian văn hóa của làng nông nghiệp.
Cho đến nay không ai còn nhớ và cũng không có tài liệu nào cho biết nghề cào hến có từ bao giờ, chỉ biết rằng nghề này được gìn giữ, lưu truyền qua nhiều thế hệ. Đó là nét văn hóa đặc trưng của làng quê vùng ven sông La. Câu chuyện truyền miệng về nghề cào hến được kể lại như sau: Cách đây khoảng 300 năm, trong làng có một gia đình mẹ mất sớm, người cha một mình chịu cảnh gà trống nuôi con, lớn lên người con thi đỗ làm quan, trên đường trở về quê hương vinh quy bái tổ, khi đi qua sông La thuộc xã Trường Sơn hiện nay gặp sấm sét, mưa gió dữ dội và bị rơi xuống sông. Người dân trong làng tìm kiếm khắp nơi nhưng không thấy xác, chỉ vớt được những con hến nho nhỏ, đem về nấu cháo, nấu canh thấy rất ngon, rất ngọt. Từ đó, người dân đi bắt hến về phục vụ nhu cầu ăn uống, ăn không hết họ đưa sang các làng bên đổi lấy các loại thức ăn như cá, thịt, rau… Dần dần trở thành nghề mưu sinh của làng Bến Hến và được duy trì cho đến tận ngày nay.
Cào hến là một nghề vất vả không chỉ phải dầm mình cả ngày dưới sông, chưa kể phải liên tục thực hiện các động tác di chuyển cào mà còn phải phụ thuộc vào con nước thủy triều lên xuống. Lúc trước chủ yếu đánh bắt thủ công bằng chiếc cào làm bằng gỗ hoặc tre có máng hình chữ nhật, cán dài 1m đến 1,5m, cứ thế ngâm mình dưới sông vừa đi thụt lùi vừa lắc đều để đãi hến. Những năm trở lại đây, máy móc và phương tiện hiện đại giúp việc cào hến đỡ vất vả hơn, người dân ngồi trên thuyền máy, cắm cào xuống cát chạy dọc trên sông là bắt được hến.
Công việc hàng ngày và quen thuộc của người dân nơi đây bắt đầu từ tờ mờ sáng vàtối mịt mới kết thúc công việc, được cư dân nơi đây miêu tả:
“…Những buổi chiều khi gió nồm thổi mát
Ngoài Sông La san sát thuyền cà
Hến về nhiều kẻ nấu người chao
Già hóng mát, trẻ thả diều bơi lội…”(2)
Chao hến - một công đoạn của nghề cào hến ở xã trường sơn. Ảnh: Phạm Đức.
Cứ thuyền cập bến, không kể già, trẻ, gái, trai đều đổ xô ra bưng những rổ hến đầy ắp lên bờ, hến được ngâm vào nước một buổi hoặc một đêm để hến nhả hết bùn, hết cát. Sau đó, đổ hến vào nồi đậy kín bắc lên bếp khoảng 10 phút sau khuấy đều, những con hến bung ra khỏi vỏ, vớt ra và đưa đi đãi để lấy ruột. Mùi hến bốc lên thơm lừng từng con ngõ, công đoạn này đòi hỏi sự khéo léo, chịu khó của người phụ nữ, bởi thành quả của cả một chuyến ngược sông phụ thuộc vào việc có lấy được hết ruột ra khỏi võ hến hay không. Những con hến bé li ti qua nhiều công đoạn chế biến khá tỉ mỉ có thể chế biến ra nhiều món ăn lạ miệng những không kém phần hấp dẫn như hến xào, canh hến, lẩu hến, cháo hến…vị ngọt của hến hòa quyện với các loại gia vị đi kèm tạo nên hương vị đặc trưng của món ăn quê hương Đức Thọ. Dù đi xa câu hát rao “Hến ngọt, rọt nậy, đong đầy, bán rẻ ai mua” vẫn níu bước chân người xa quê tha thiết tìm về.
Các dụng cụ để khai thác, chế biến hến:
Cào tre: Trước đây cào hến bằng thuyền chèo tay, người dân dùng cào tre để cào hến.
Cào sắt: Được thay thế cho cào tre năng suất thấp ngày trước, thường dùng cho thuyền máy, trọng tải trên 24 mã lực.
Bồ đựng hến: Được đan từ tre mây, hình trụ tròn. Hến sau khi được khai thác về cho vào bồ để ngâm sạch bùn đất trước khi chà rửa.
Thúng chao: Hến sau khi ngâm sạch bùn cho vào thúng để chao rửa.
Rổ đãi sỏi: Hến sau khi chà rửa cho vào rổ thưa để đãi sạch sỏi trước khi luộc.
Rổ đựng: Hến sau khi làm sạch sỏi cho vào rổ đựng để chuẩn bị luộc.
Rá chao: Hến sau khi luộc cho vào rá để chao.
Rổ vớt: Hến sau khi đun sôi bung ra khỏi võ, dùng rổ vớt để đãi lấy ruột.
Rổ đựng ruột: Được đan dày mắt, dùng đựng hến ruột khi công đoạn cuối cùng đã hoàn tất, đem sản phẩm đi bán.
Nồi gang: Nồi dùng để luộc hến tách khỏi võ.
Thùng: Đựng nước hến luộc đem đi bán.
Hến ở xã Trường Sơn đã khẳng định được thương hiệu và giá trị nên nhiều thương lái đã tìm đến tận nơi thu mua với số lượng lớn rồi vận chuyển đi tiêu thụ khắp nơi trong và ngoài tỉnh. Ngay ở xã có chợ Thượng, chợ Vãi, chợ Đón, qua đò có chợ Hôm, chợ Đồn, ngược sông Ngàn Sâu có chợ Bộng, chợ Phùng, ngược sông Ngàn Phố có chợ Choi, chợ Phố Châu, xuôi sông La có chợ huyện, tất cả đều bày bán món đặc sản này. Hến sông La đã vượt mọi nẻo đường, có mặt ở các bàn ăn tại các đô thị như thị xã Hồng Lĩnh, thành phố Hà Tĩnh, hến còn ra tận Nghệ An, vào Quảng Bình…
Nghề hến đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế của xã Trường Sơn cùng với nền sản xuất nông nghiệp tạo ra các sản phẩm, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của người dân, giải quyết việc làm cho lao động dư thừa ở nông thôn, tăng thu nhập, dần xóa bỏ sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn:
“…Làng Hến xưa bây giờ đổi khác
Đường bê tông trải rộng dọc ngang
Nhà ngói, nhà tầng dáng vẻ khang trang
Thuyền máy lớn rộn ràng bến nước…”(3)
Đất nước bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, áp dụng các thành quả nghiên cứu vào sản xuất các trang thiết bị máy móc đang dần thay thế cho phương pháp sản xuất thủ công trước kia đã và đang tác động trực tiếp đến nghề cào hến nói riêng và các ngành nghề thủ công truyền thống nói chung.
Mỗi ngày với hàng chục thuyền máy hoạt động cào hến, không chỉ hến lớn mà hến bé cũng bị khai thác, điều này không chỉ đang vô tình hủy diệt nòi hến mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường xung quanh. Đặt nghề hến ở Trường Sơn trước nguy cơ cạn kiệt trong những năm tới.
Đối với lớp lao động trẻ hiện nay của xã được truyền nghề bài bản nhưng không theo nghề vì họ cho rằng nghề cào hến thu nhập thấp, không ổn định, làm theo thời vụ “nắng làm nhiều, mưa làm ít”chỉ hợp với những người già. Tuổi trẻ có sức khỏe, có trình độ, nhu cầu thu nhập cao hơn, ổn định hơn nên chọn con đường đi làm công nhân công nghiệp hoặc tham gia trong các lĩnh vực dịch vụ xã hội, được tham gia bảo hiểm xã hội, có điều kiện học hỏi, tiếp cận khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên, có một số ít người trong lớp lao động trẻ vẫn muốn tiếp tục nghề, bởi nhu cầu về sản phẩm trên thị trường lớn, họ mong muốn có nguồn vốn đầu tư mua sắm trang thiết bị bằng máy, thay cho làm thủ công như trước, nhưng đây là một bài toán khó chưa có lời giải.
Để bảo tồn và phát huy giá trị kinh tế đối với nghề cào hến trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nền kinh tế thị trường hiện nay cần phải có sự giúp đỡ của các chính quyền địa phương và các ngành chức năng thể hiện qua các chính sách, các chương trình hành động cụ thể, vừa tạo điều kiện cho nghề phát triển, vừa khuyến khích sự quan tâm của các cấp xã, huyện, tỉnh thực hiện các hành động tích cực để giúp làng nghề, cụ thể:
Chính quyền địa phương và các ngành chức năng cần tạo điều kiện cho xóm nghề tiếp tục phát triển bằng những ưu đãi về chính sách, hỗ trợ về nguồn vốn ban đầu, mua sắm trang thiết bị, dụng cụ để làm nghề, ưu đãi đối với những người dân đã và đang còn làm nghề, tâm huyết với nghề. Thông qua trung tâm giáo dục cộng đồng tại địa phương, tổ chức các lớp dạy nghề, vận động người già có kinh nghiệm tham gia truyền nghề cho đội ngũ lao động. Tích cực tuyên truyền vận động cho người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ ý thức được tầm quan trọng của nghề hến ở địa phương không chỉ đơn thuần là nghề thủ công đem lại hiệu quả kinh tế mà con mang ý nghĩa về mặt văn hóa truyền thống của địa phương, của dân tộc, cần thiết phải bảo tồn và gìn giữ cho muôn đời sau.
Thông qua các hội chợ thương mại chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng cần xem xét, giúp cho nhóm nghề có gian trưng bày riêng, quảng bá rộng rãi món đặc sản này đến khách du lịch trong và ngoài tỉnh. Bên cạnh đó cũng tạo điều kiện cho người dân giới thiệu sản phẩm tại các đô thị, trị trấn, chợ nông thôn ở các địa phương khác để định hướng đầu ra cho sản phấm có tính ổn định.
Cần khoanh vùng khai thác để đảm bảo nguồn hến luôn luôn dồi dào cho việc đánh bắt lâu dài.
Cũng giống như các ngành nghề gia truyền khác, nỗi lo mai một về cái nghề “đi thụt lùi” ngày càng lớn. Chính vì thế, năm 2020, Bảo tàng Hà Tĩnh đã sưu tầm và lưu giữ một số vật dụng trong quá trình khai thác, chế biến để bảo tồn và giới thiệu đến du khách tham quan và các thế hệ sau này hiểu rõ hơn về nghề truyền thống của địa phương, về văn hóa làng nghề, các kỹ năng, tinh hoa nghề nghiệp để tạo nên món ăn bình dị, chân quê.
Chú thích:
(1)Theo số liệu thống kê của UBND xã Trường Sơn tính đến tháng 12 năm 2020.
(2), (3) Trích “Thôn hến ngày nay” của ông Lê Kim Cúc - xã Trường Sơn.
Tài liệu tham khảo:
1. Lịch sử Đảng bộ xã Trường Sơn.
2. Làng nghề và những nghề thủ công truyền thống ở Bắc Giang, Nxb VHTT
3. Nghề thủ công truyền thống ở Thạch Phú, Nxb Đồng Nai.
4. Hồ sơ hiện vật nghề Cào Hến tại Bảo tàng Hà Tĩnh.