Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Cuộc tổng khởi nghĩa vào tháng 8/1945 giành chính quyền từ tay Phát xít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng minh tiến vào là một bước ngoặt lịch sử trọng đại mang tính chất sống còn của dân tộc. Khi ấy cả non sông như bừng dậy dưới lời hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân cả nước nhất tề đứng lên tiến hành tổng khởi nghĩa, đập tan gồng xích đô hộ. Chỉ trong 15 ngày kể từ ngày 19/8, từ Bắc chí Nam cuộc khởi nghĩa đã hoàn toàn thắng lợi, chính quyền về tay nhân dân. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời bằng dấu mốc lịch sử ngày Tuyên ngôn độc lập trên Quảng trường Ba Đình (Hà Nội).
Nhà nước Việt Nam non trẻ lúc ấy đã phải đối mặt với rất nhiều thách thức, khó khăn, rình rập mối nguy cơ đe dọa quay lại Đông Dương từ thực dân Pháp, sự phá hoại chính quyền từ quân Tưởng đồng thời quân Đồng minh cũng tiến vào gây ảnh hưởng không nhỏ đến quyền độc lập, tự chủ, tự quyết của chính phủ lâm thời lúc ấy.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, chúng ta đã thực hiện biện pháp kéo dài hòa bình, mềm mỏng với đối phương. Hiệp ước sơ bộ Việt – Pháp (6/3/1946) rồi Tạm ước Việt – Pháp (14/9/1946) giúp Chính phủ ta có thời gian đối phó với quân Tưởng, khiến Tưởng phải rút quân về. Nhưng với Thực dân Pháp, mục tiêu của chúng là quay trở lại đặt nền thống trị trên cõi Đông Dương một lần nữa. Nhiều cuộc xung đột cả chính trị lẫn quân sự Pháp gây ra không chỉ ở các tỉnh thành lân cận mà ngay cả tại Thủ đô Hà Nội. Ngày 22/11/1946, Pháp gây hấn tại bằng cách huy động chiến hạm nã pháo vào Hải Phòng làm thương vong hàng nghìn người. Ngày 17/12/1946, Pháp gửi tối hậu thư đòi tước vũ khí quân Việt Minh. Không nhẫn nhịn được nữa, toàn quốc đã bùng nổ kháng chiến.
Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập khẩn cuộc họp Ban thường vụ Trung ương Đảng tại Hà Đông và đi đến quyết định phát động kháng chiến. “Tất cả hãy sẵn sàng” là chỉ thị trong bức điện Ban Thường vụ gửi cho các chiến khu, các tỉnh ủy vào lúc đó. Tư tưởng, đường lối kháng chiến của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra ngay từ đầu của cuộc kháng chiến được thể hiện tập trung trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Chỉ thị Toàn quốc kháng chiến và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi. Đó là một cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện và lâu dài, tuy gian khổ nhưng vì mục tiêu hướng đến độc lập, tự do, tự chủ mà tất cả mỗi người dân Việt Nam đều quyết tâm bước tới.
Ngay sau ngày Toàn quốc kháng chiến, cuộc kháng chiến của dân tộc ta đã bước vào con đường trường kỳ, gian khổ và oanh liệt, song lúc nào cũng tràn đầy tinh thần lạc quan, vững tin vào Đảng, vào Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhân kỷ niệm 5 năm ngày Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi lời kêu gọi đến toàn thể đồng bào. Thông qua đó, Người đã điểm qua những kết quả mà cuộc cách mạng của chúng ta đạt được, Người đã viết rằng: “Trong 80 năm xiềng xích nô lệ của thực dân, biết bao liệt sĩ, biết bao con cháu oanh liệt của Việt Nam đã hy sinh xương máu vì Tổ quốc. Kết quả đầu tiên là cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám. Kế theo đó là cuộc tuyên bố Việt Nam độc lập ngày 2-9. Liền sau ngày độc lập thì thực dân tham tàn gây hấn cuộc chiến tranh. Ngày trước với xương máu của chiến sĩ và sức đoàn kết của đồng bào mà chúng ta tranh được độc lập. Thì ngày nay cũng với xương máu của Chiến sĩ và sức đoàn kết của đồng bào mà chúng ta kháng chiến để giữ vững nền Độc lập”
Thật vậy, từ năm 1945 đến năm 1950, chỉ trong 2 năm đầu tiên chúng ta vừa khắc phục khó khăn vừa đánh trả các đòn công kích của địch, thì đến năm 1947 trong chiến dịch thu đông trên chiến trường Việt Bắc, Quân đội nhân dân Việt Nam đã tiêu diệt hơn 6000 lính địch , bắn rơi 16 máy bay, 11 ca nô và tàu chiến bị bắn chìm, nhiều phương tiện chiến tranh khác bị phá hủy. Sau đó trong chiến dịch biên giới 1950, quân đội ta lần đầu tiên tổ chức một cuộc tiến công quy mô lớn vào hệ thống phòng ngự của địch trên tuyến Cao Bằng – Lạng Sơn, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc, mở đường giao thông với các nước XHCN, tiêu diệt một phần sinh lực địch. Qua những trận thắng quan trọng đó, Bác khẳng định: “Xét kỹ tình hình địch, tình hình ta, tình hình trong nước và tình hình thế giới, tôi dám báo cáo chắc chắn với đồng bào và chiến sĩ rằng: cuộc trường kỳ kháng chiến chủa ta đã gần đến thắng lợi hoàn toàn, sự nghiệp thống nhất và độc lập của ta đã gần đến thành công mĩ mãn”
Lời khẳng định của Bác đã truyền đi tinh thần lạc quan, tin tưởng vào sức mạnh của sự đoàn kết, thống nhất và ý chí chiến đấu của quân và dân ta. Tuy vậy, Bác vẫn căn dặn không được chủ quan trên chiến thắng, bác viết “Phải nhớ rằng: ta càng gần thắng lợi, càng gặp nhiều khó khăn, khó khăn càng nhiều là thắng lợi càng gần đến. Vì vậy chúng ta tuyệt đối chớ chủ quan, chớ khinh địch. Vì vậy chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng tinh thần và vật chất để vượt qua những sự khó khăn để tiếp đón những dịp thắng lợi…”
Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác, để động viên tình thần lao động sản xuất và chiến đấu của quân dân Hà Tĩnh, Ty Thông tin Hà Tĩnh đã in 1000 bản “Lời kêu gọi của Hồ Chủ - tịch nhân dịp kỷ niệm Cách mạng tháng Tám và ngày Độc lập 2 tháng 9” tuyên truyền rộng rãi tới các tầng lớp nhân dân
Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác, toàn thể quân dân Việt Nam tiếp tục đồng lòng giữ vững thế trận toàn dân đánh giặc, quân đội nhân dân Việt Nam trưởng thành qua từng trận chiến. Quân ta tiếp tục phát huy thế tiến công chiến lược trong giai đoạn 1951-1953, tiến tới tổng tiến công chiến lược đông xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ chấn động thế giới đã giáng một đòn quyết định cuối cùng vào ý đồ chiến tranh của thực dân ở Đông Dương, bắt buộc chúng phải ngồi lại bàn đàm phán Hiệp định Gienevè, trao trả lại nền hòa bình, độc lập dân tộc cho các nước Đông Dương.
Riêng Hà Tĩnh, từ những năm 1949-1950, nhất là sau Hội nghị toàn quốc của Đảng vào tháng 1/1950 chủ trương gấp rút hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công, Hà Tĩnh đã giương cao khẩu hiệu “Hà Tĩnh không được thiếu người, không được thiếu của, không được thiếu một thứ gì cung cấp cho kháng chiến”. Hà Tĩnh đã góp lương thực, thực phẩm, nhân lực, vật lực cho chiến trường Việt Bắc và chiến trường Bình Trị Thiên, đồng thời đấu tranh phòng chống các âm mưu phá hoại hậu phương từ phía địch, củng cổ tổ chức Đảng, củng cố niềm tin và khối đoàn kết quân dân với Đảng một lòng. Nhờ sự chuẩn bị đầy đủ, sẵn sàng về mọi mặt, Đảng bộ và quân dân Hà Tĩnh đã đóng góp một phần xứng đáng vào thắng lợi của chiến dịch Đông Xuân 1953-1954.
Trong những ngày tháng Tám lịch sử đang đến gần, không khí chào mừng ngày kỷ niệm kháng chiến 19-8 và Quốc khánh 2-9 càng sôi nổi hơn. Lời kêu gọi của Bác viết ra từ 73 năm trước đến nay vẫn như còn vang vọng với non sông. Dù trong thời kỳ nào, Đảng bộ, chính quyền và toàn thể quân dân Hà Tĩnh vẫn đang từng ngày ra sức phát huy tinh thần đoàn kết, học tập, rèn luyện và cống hiến, xây dựng quê hương mỗi ngày một phát triển hơn.