Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Công tác nghiên cứu khảo cổ đã góp phần quan trọng trong việc tìm hiểu về lịch sử vùng đất Hà Tĩnh. Hơn một thế kỷ với hàng chục cuộc điều tra, thám sát, khai quật khảo cổ học đã khám phá hàng chục di chỉ, phát hiện hàng nghìn hiện vật rất đa dạng, phong phú từ công cụ sản xuất, đồ dùng sinh hoạt đến đồ trang sức và làm phát lộ những cấu trúc địa tầng văn hóa đã cung cấp một nguồn cứ liệu, thông tin quan trọng về niên đại, trình độ văn minh, hình thái xã hội của những lớp cư dân cổ Hà Tĩnh.
Bên cạnh những chủng loại hiện vật rất đa dạng về chất liệu thì trong đó đồ gốm chiếm số lượng khá lớn trong các di chỉ khảo cổ học: Thạch Lạc, Rú Điệp, Lôi Mốt (Thạch Hà); Phôi Phối, Bãi Cọi, Bãi Lòi, đền Huyện (Nghi Xuân). Điều này cho thấy cư dân cổ vùng Hà Tĩnh, trong tiến trình phát triển của mình, đã biết chế tác và sử dụng đồ gốm. Dựa trên những kết quả về khảo cổ học, chúng tôi xin giới thiệu những hiện vật đồ gốm tiêu biểu ở các di chỉ đã phát hiện giúp có cái nhìn khát quát về đồ gốm tiền, sơ sử trên vùng đất Hà Tĩnh.
1. Loại hình: trong những di chỉ khảo cổ học được thám sát, khai quật hiện vật gốm chiếm số lượng khá lớn. Trong đó tiêu bản gốm còn nguyên dạng chiếm tỷ lệ thấp; mảnh gốm vỡ chiếm tỷ lệ cao. Qua nghiên cứu các nhà khoa học đã định dạng được nhiều loại hình. Hầu hết các hiện vật gốm là những đồ dùng phục vụ cho cuộc sống của cư dân thời tiền, sơ sử.
1.1. Bình: là loại hình đồ đựng có chân đế thường làm rời, sau đó gắn chắp vào thân khi xương gốm đã được làm se bề mặt. Loại này tìm thấy trong các di chỉ còn nguyên chiếm tỷ lệ thấp. Các loại bình hình con tiện, hình giống nồi gắn chân đế được chế tác bằng cách nặn, miết tay, bàn xoay ở di chỉ Bãi Cọi và Bãi Lòi (xã Xuân Viên - Nghi Xuân). Nhiều mảnh vỡ được định dạng là đồ đựng bình chiếm số lượng khá nhiều. Các loại bình có nhiều kích cỡ, được làm từ đất sét pha cát lẫn nhuyễn thể, bã thực vật, hay hạt khoáng vật.
Bình con tiện có hình dáng cân đối, miệng loe xiên, mép miệng tròn, vành miệng trong cong lõm lòng máng, mặt ngoài tạo đường lõm nhẹ. Cổ đứng cao, vai xiên tạo với bụng gờ gãy góc ngang thân, phần gờ này được vuốt tạo thành đai, bụng vát xiên xuống đáy, chân đế cao loe choãi. Vai miết láng kết hợp văn khắc vạch đường chỉ chìm, văn in chấm tạo thành các băng hoa văn: trong đó có băng chữ S móc nối nằm ngang với nhiều bến thể khác nhau.
Loại bình hình nồi gắn chân đế thường là hình cầu, có nắp. Miệng loe xiên, mép miệng vát vào trong, vành miệng cong lõm lòng máng. Cổ thấp.Vai xuôi tạo với bụng đường gờ nhẹ. Bụng thuôn dần về đáy. Đáy hình chỏm cầu, chân đế loe thấp vai. Thân trang trí văn đập ô vuông nông. Kích thước loại này thường cao 31,7cm, đường kính miệng 21cm, đường kính thân 33,5cm, đường kính chân đế 16cm.
1.2. Chum, vò: Hầu hết chum gốm (hay còn gọi là vò) được tìm thấy trong di chỉ mộ táng thuộc thời đại kim khí như di chỉ ở Bãi Cọi và Bãi Lòi. Các tiêu bản chum thường có hình trái đào và hình vỏ trứng, miệng loe, tạo gờ vai, thân thuôn nhỏ dần về đáy, tạo đáy chỏm cầu, chủ yếu bị vỡ và phục dựng một phần. Nắp hình nón cụt. Chum có nhiều kích cỡ khác nhau, chiều cao trung bình khoảng 50-70cm, rộng ngang thân 40- 50cm; chất liệu đất sét pha cát thô; hoa văn khắc vạch, hoặc văn thừng thô in ô vuông. Chum thường được cư dân cổ dùng để chôn người chết và đồ dựng sinh hoạt.
1.3. Nồi: Các mảnh vỡ của các loại nồi tìm thấy trong các di chỉ phần lớn chúng có kích cỡ vừa và nhỏ. Loại miệng loe, mép tròn hoặc vuông, cổ thắt, bụng nở và thu hẹp dần về phia đáy, hoặc gãy khúc tạo phần hông. Loại miệng loe hơi khum, cổ thẳng đứng, thân tròn đều hoặc gãy khúc tạo thành phần vai, đáy tròn, xương không dày. Nồi dùng trong việc đun nấu phục vụ nhu cầu cuộc sống. Một số loại nồi lớn dùng trong việc mai táng ở di chỉ Bãi Cọi và Bãi Lòi.
1.4. Bát: Các loại bát tỷ lệ nguyên ít, đại đa số là các mảnh vỡ. Một số được định dạng từ các loại bát nhỏ tìm thấy ở di chỉ Thạch Lạc, Phôi Phôi, Bãi Cọi, Bãi Lòi. Chúng có màu đỏ, đen, chất liệu gốm mịn, miệng loe đế ghép thấp. Loại bát bồng, bát chân cao chất liệu đất sét mịn màu đỏ. Phần trên có dạng đĩa, loe rộng, miệng hơi khum, đáy hơi lồi, phần trụ tròn cao nối với đế có hình chóp hơi choãi cong. Một số tiêu bản có văn đắp dải hay khắc vạch.
1.4. Chõ: là loại hình hai phần là nồi đáy hình cầu phía dưới, phần đựng phía trên giống chiếc lẵng hoa, thành thẳng loe rộng dần về phía miệng, mép miệng được tạo gờ, cong lõm lòng máng. Phần đựng này gắn liền với nồi đáy, lớp ngăn là một hình vành khăn có nhiều lỗ thủng chạy vòng tròn ở giữa vành khăn là một lỗ lớn. Phần đáy cầu hình cầu. Giữa vai và thân tạo gờ. Thân có hoa văn đập. Chiều cao trung bình 20,3cm, đường kính miệng 21,2cm, đường kính lớn nhất 20cm. Loại này tìm thấy ở di chỉ khảo cổ học Bãi Cọi, Bãi Lòi.
1.5. Dọi xe chỉ: tìm thấy ở di chỉ Thạch Lạc, Bãi Lòi và Bãi Cọi. Hầu hết dọi xe chỉ có màu hồng nhạt xen lẫn với màu xám đen, hình bầu dục, hình nón cụt, hình thoi, có lỗ xuyên ở chính giữa, không có hoa văn, chất liệu làm từ đất nung pha nhiều cát. Các dọi xe chỉ là dụng cụ cho thấy cư dân cổ Hà Tĩnh đã biết đến nghề xe sợi, dệt vải.
1.5. Đồ trang sức: Bao gồm khuyên tai 3 mấu ở di chỉ Bãi Cọi, khuyên tai hình trụ, hình con đĩa tìm thấy khá nhiều ở di chỉ Thạch Lạc. Khuyên tai hình con đĩa có dáng cong cung tròn với đường kính trung bình 3,8cm, đường trong gần 1cm, mặt cắt khuyên tại hình bầu dục; khuyên tai hình “nón cụt” kích thước trung bình đường kính lớn 3,5cm; đường kính nhỏ: Trung bình từ 2,5cm đến 3cm với số lượng hơn 30 chiếc. gốm thường là màu xám đỏ, đỏ gạch, chất liệu gốm pha cát và võ nhuyễn thể.
Ngoài những hiện vật gốm có thể phục dựng và gắn chắp được hình dạng, trong hố khai quật và thám sát còn một số lượng lớn các mảnh gốm vụn xuất hiện trong các hố có dấu vết của tầng cư trú. Các loại hình mảnh gốm (bao gồm : mảnh miệng, thân, chân, đáy, đế, núm đít nhọn, tai gốm…) trong các hố có chất liệu, màu sắc, hoa văn tương tự của các loại hình gốm trong hố còn nguyên hoặc đã phục dựng lại được.
2. Chất liệu và kỹ thuật chế tác: Trong các loại sản phẩm gốm được tạo qua các thời đại phát triển của con người, mọi vùng lãnh thổ, thành phần nguyên liệu chủ yếu là đất sét. Hầu hết các sản phẩm gốm của cư dân cổ Hà Tĩnh thời tiền, sơ sử có thành phần chính là đất sét pha cát thô, lẫn vỏ nhuyễn thể, bã thực vật, hay hạt khoáng vật. Về màu sắc chủ yếu gốm màu nâu xám, nâu đỏ và đỏ, độ nung không cao lắm, lớp áo gốm hay bị bong tróc. Tùy thuộc vào tỷ lệ các thành phần mà có thể cho ra loại chất liệu gốm thô hay gốm mịn. Phần lớn, chất liệu làm gốm ở đây là gốm mịn. Một số là gốm xốp. Màu sắc gốm chủ yếu có xám hồng, xám trắng, xám đen. Màu sắc của gốm một phần tùy thuộc vào chất liệu, phần khác tùy thuộc vào độ nung. Ngoại trừ các thao tác trong khâu tuyển chọn nguyên liệu, phụ gia, gốm thời tiền, sơ sử ở Hà Tĩnh được chế tác bằng các kỹ thuật thao tác bằng tay như dải cuộn (tạo phôi), nặn vuốt (dáng mép miệng, tạo gờ, xoa bề mặt, miết láng…), kỹ thuật hòn đập - bàn kê, kỹ thuật gắn kết chân đế, chải, khắc, tô màu… trong các công đoạn tạo hình, tu chỉnh bề mặt, trang trí hoa văn.
3. Hoa Văn: Hoa văn trang trí trên sản phẩm gốm cũng là một tiêu chí phân loại gốm. Gốm có hoa văn và không có hoa văn (gốm trơn).Tại các di chỉ khảo cổ học, hai loại gốm này đều được phát hiện những tỷ lệ giữa chúng trong các di chỉ khác nhau. Hoa văn được thể hiện trên các bề mặt của nhiều tiêu bản gốm với chủ định của người chế tác. Trên các đồ gốm tiền, sơ sử ở Hà Tĩnh, các loại hình hoa văn phổ biến đều thấy xuất hiện như văn thừng, văn nhăn tàn ong (xuất hiện trên hầu hết các loại chum, nắp chum, bình, nồi ở di chỉ Bãi Cọi);
Tuy nhiên, nếu nghiên cứu các di vật đồ gốm Bãi Cọi, ta lại thấy sự phát triển của truyền thống gốm Sa Huỳnh từ kiểu dáng đến hoa văn trang trí, loại hình, chất liệu, kỹ thuật, điển hình như các loại bình con tiện. Song, gốm Bãi Cọi cũng ảnh hưởng đậm văn hoá Đông Sơn qua kiểu hoa văn đập trên thân các đồ gốm. Đặc biệt là sự xuất hiện của chõ gốm, loại di vật vốn được cho là của văn hoá Đông Sơn (loại hình Làng Vạc). Còn nhiều, những đặc điểm của cả hai văn hoá Đông Sơn và Sa Huỳnh hội tụ trong di tích và di vật Bãi Cọi. Chính bởi vậy Bãi Cọi với những đặc trưng cơ bản thể hiện sự giao lưu, trao đổi và hội tụ cả hai nền văn hoá Đông Sơn và Sa Huỳnh. Hoa văn khắc vạch, văn chải, văn thừng, văn dập, văn in chấm, in dải, văn in vỏ sò, khuông nhạc ở di chỉ Thạch Lạc; những đồ án hoặc họa tiết hoa văn trên gốm cổ Hà Tĩnh thời tiền, sơ sử rất phong phú và đa dạng. Chúng thể hiện trên các bề mặt của sản phẩm như: các đường vạch; chỉ chìm hay chấm thẳng, song song, xiên, chéo, cong, đường xoáy trôn ốc, đường lượn sóng, đường gãy rời nối nhau, hình học (răng sói, hình thoi, hình vuông dạng ô lưới, hình khuông nhạc, hình bầu dục, hình rằn cưa, hình chữ V, chữ S). Các đồ án được thể hiện bằng nhiều kiểu, tạo nên những mảng trang trí độc đáo trên sản phẩm. Ngoài những hoa văn được dùng trong trang trí, gốm cổ Hà Tĩnh thời tiền sơ, sử có xuất hiện loại gốm phủ màu hoặc bôi màu. Những dạng gốm này chiếm tỷ lệ ít, phát hiện ở di chỉ Phôi phối.
Qua kết quả nghiên cứu khảo cổ học nói chung và vấn đề nghiên cứu về đồ gốm , có thể thấy rằng vùng đất Hà Tĩnh là một địa bàn hình thành và phát triển của cộng đồng cư dân cổ thời hậu kỳ đá mới, sơ kỳ kim khí, kim khí phát triển theo khuynh hướng ngày càng đa dạng. .Trong quá trình tồn tại, cư dân cổ Hà Tĩnh đã thích ứng với môi trường địa - sinh thái và không ngừng phát triển. Họ đã biết đến những nghề thủ công mà trong đó có nghề làm gốm, với một trình độ kỹ thuật nhất định để thích ứng phục vụ cho đời sống kinh tế xã hội nguyên thủy kể từ khi con người biết đến chăn nuôi và trồng trọt.
Nguyễn Thị Thương Hiền
Tài liệu tham khảo:
Lê Ngọc Hùng, Nguyễn Mạnh thắng, Chu Văn Vệ, Lê Văn Chiến, Nguyễn Văn Thưởng, Trần Hồng Dần, Nguyễn Thương Hiền ( 2010), Di chỉ Bãi Cọi (Hà Tĩnh) qua kết quả khai quật 2008- 2009) trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 2009, Nxb Khoa học Xã Hội. Nguyễn Mạnh Thắng, Lê Ngọc Hùng, Chu Mạnh Quyền, Kết quả cáo kết quả khai quật khảo cổ học Bãi Cọi lần II, III Chu Mạnh Quyền, Địa điểm khảo cổ học Bãi Cọi (Hà Tĩnh), Luận Văn thạc sĩ. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội. Hồ Bách Khoa, di chỉ khảo cổ Phôi phôi - Bãi Cọi xã Xuân Viên, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Hồ sơ xếp hạng di tích Quốc Gia - Tư liệu Bảo tàng Hà Tĩnh Nguyễn Thị Thúy (2016), Di chỉ Thạch Lạc trong bối cảnh các di tích cồn sò điệp ven biển Hà Tĩnh, Luận văn Thạc sĩ, Tư liệu Viện Khảo cổ học. Nguyễn Thị Thúy (2014), Điều tra nhóm di tích thuộc văn hóa Thạch Lạc ở Nghệ An - Hà Tĩnh, Tư liệu Thư viện Viện Khảo cổ học. Báo cáo khai quật di chỉ khảo cổ Thạch Lạc – Thạch Hà – Hà Tĩnh: năm 2002; 2004; 2005; 2014; 2015.