Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Ngôi đền toạ lạc tại làng Phúc Lai, xã Sơn Bằng, huyện Hương Sơn, là chứng tích lịch sử gắn với tiến trình khai phá và hình thành làng cổ Phúc Lai. Lần theo dấu xưa, vào những năm cuối thời Trần (cuối thế kỷ 14), những cư dân họ Bùi từ vùng Hà Đông (thành phố Hà Nội ngày nay) thiên di đến đây sinh cơ lập nghiệp. Buổi đầu định cư nơi miền đất xa xôi hẻo lánh, thiên nhiên khắc nghiệt, họ đã dựng điện thánh Tam Lang trên núi Am làm nơi sinh hoạt tín ngưỡng và thờ thần Tam Lang làm thành hoàng làng. Thần Tam Lang (thần Rắn) - tín ngưỡng sùng bái tự nhiên của cư dân vùng sông nước, một biểu tượng đặc trưng của nền nông nghiệp lúa nước có từ rất sớm ở đồng bằng Bắc bộ được những di dân tiếp tục bảo lưu và thờ phụng.
Đền Phúc Lai, xã Sơn Bằng - Hương Sơn
Ban đầu họ sinh sống bằng nghề chài lưới, trải qua thời gian họ đã lập ra một "vạn chài" khá trù phú hay còn gọi là Vạn Nầm trên sông Ngàn Phố. Trên thuyền, dưới bến chăm lo làm ăn, họ đã tạo dựng được một cuộc sống khá sung túc. Bởi vậy, đến ngày nay vẫn còn lưu truyền câu:
Nhất giàu là vạn Đỗ Gia
Thứ nhì vạn Phố, thứ ba vạn Nầm
Thế kỷ XV, dưới thời Hồng Đức, quốc gia Đại Việt thịnh trị về mọi mặt. Chính trị ổn định. Kinh tế, văn hoá phát triển rực rỡ. Trong ngoài bờ cõi bình yên. Tương truyền, bấy giờ vua Lê Thánh Tông trong chuyến tuần du vùng Nghệ An, đoàn thuyền theo sông Ngàn Phố để kinh lý miền thượng Đỗ Gia (nay là huyện Hương Sơn), khi đoàn thuyền rồng đi qua đoạn sông phía trước xóm vạn đò (vị trí này là một cái vực rất sâu người dân quen gọi là Hàm Rồng), dù nước sâu sông rộng mà thuyền cứ vần vũ mãi đến 3 ngày vẫn không đi được. Theo lời mách bảo của dân làng, nhà vua đã cho lập đàn làm lễ tế thần ở Đền Tam Lang để cầu xin thần linh trợ giúp, nhờ đó đoàn thuyền đã dễ dàng vượt qua. Trải qua thời gian, đoạn sông đổi dòng, địa hình thay đổi, cư dân di chuyển vào địa điểm mới để định cư và khai sinh ra làng Phúc Lai, một làng cổ nhất của xã Hữu Bằng (Sơn Bằng ngày nay). Cái tên Phúc Lai mang ý một nghĩa sâu xa, gợi lên một ước vọng hạnh phúc, thanh bình của những cư dân trong buổi đầu đến định cư nơi miền đất mới, đồng thời gửi gắm một ước muốn tạo phúc cho muôn đời sau. Điện thánh Tam Lang cũng được chuyển về dựng lại trên làng Phúc Lai, vì vậy mà ngôi đền mang tên Phúc Lai. Đền được xây dựng vào năm Quý Sửu (1433) dưới thời Lê sơ, công trình có quy mô khá lớn gồm có nhà bái đường và hậu cung được làm bằng gỗ lim. Toàn bộ công trình kiến trúc được chạm trổ các đường nét hoa văn tinh xảo với những đề đề tài truyền thống quen thuộc: tứ linh, tứ quý. Đền trải qua một số lần trùng tu, tôn tạo vào thế kỷ XIX nên đền thờ mang dấu ấn kiến trúc nghệ thuật Lê - Nguyễn.
Đền Phúc Lai là niềm tự hào của làng Phúc Lai nói riêng, xã Hữu Bằng nói chung, hàng năm cứ đến ngày 6 tháng 6 âm lịch dân làng lại mở hội làm lễ cầu mưa, để cho mưa thuận gió hoà quanh năm mùa màng xanh tốt, cuộc sống ấm no, quốc thái dân an. Bài tấu cầu mưa còn tồn tại đến nay như là một minh chứng sống động của tín ngưỡng dân gian về quá trình hình thành khai phá vùng đất này.
Mồng sáu tháng sáu không mưa
Thắp hương đốt nến tâu về thượng thiên
Trần gian điên đảo, đảo điên
Đồng khô cỏ cháy mạ chất vàng trên trưa
Long thần thổ địa xin thưa
Ngọc hoàng, thượng đế làm mưa cứu người
Ngọc hoàng, thượng đế nhận lời
Lệnh cho thần sấm thần mưa đùng đùng
Mưa to gió lớn bão bùng
Ào ào nước đổ tràn về đồng quê
Dân làng áo mũ chỉnh tề
Làm lễ hạ giá cho dân cấy cày
Làng trên xóm dưới cho hay
Cảm ơn thuỷ tế long vương độ trì
Trải mấy trăm năm, Đền Phúc Lai là địa chỉ tâm linh, nơi gửi gắm khát vọng bình yên, hạnh phúc của người dân. Các triều đại phong kiến từ đời Lê, Nguyễn đã ban tặng nhiều đạo sắc phong thần nhưng trải qua biến cố thăng trầm của lịch sử phần nhiều đã bị hư hỏng mất mát. Hiện nay, tại Đền Phúc Lai còn lưu giữ một đạo sắc của vua Duy Tân (triều Nguyễn) phong thần cho đền vào năm 1909 có nội dung như sau: "Sắc cho làng Phúc Lai, xã Hữu Bằng, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh phụng sự thờ thượng đẳng thần Hùng Tuấn Cao các, vị thần Tam lang thuỷ tế và vị thần bản thổ. Các vị thần đã có công giúp đất nước hưng thịnh, cứu giúp phù hộ nhân dân an lành. Vì vậy, trước đây các thần đã được ban sắc nay trẫm mới lên ngôi tiếp tục ban chiếu chỉ cho làng Phúc Lai tổ chức đại lễ đón nhận sắc phong thờ phụng để phù hộ cho nhân dân".
Sau cách mạng tháng 8/1945 diễn ra phong trào hợp tự, Đền Phúc Lai trở thành nơi lưu giữ nhiều sắc phong và hiện vật của các chùa chiền, đền miếu của xã Hữu Bằng, trong đó có nhiều hiện vật như tượng Phật, chiêng, lư hương, hạc đồng, bát bữu bằng đồng rất quý có giá trị nghiên cứu về lịch sử, mỹ thuật. Đáng tiếc trong nhiều năm liền do nhận thức và hành động vô thức của con người, ngôi đền bị dỡ bỏ làm nhà kho, sân đền trở thành sân phơi hợp tác xã, bãi chăn thả gia súc. Tất cả hành động ấy cùng với sự tàn phá của chiến tranh làm cho ngôi đền trở thành phế tích, không còn khả năng phục hồi, nhiều hiện vật quý và đồ thờ tự bị mất mát, hư hỏng thất lạc. Phải chăng sự hưng vong của đền Phúc Lai cũng theo quy luật thịnh - suy - bỉ - thái trong lẽ vô thường và ngôi đền cổ có lịch sử hơn năm thế kỷ gắn với làng Phúc Lai chỉ còn đọng lại trong tiềm thức và in dấu nơi nền xưa vết cũ, để lại cho người đời nổi ngậm ngùi, tiếc nuối bởi cảnh đổ nát hoang tàn trước nạn can qua dâu bể.
Trước thực trạng đó, việc tôn tạo lại Đền Phúc Lai đúng vị trí ban đầu đã đem lại nguồn động viên khích lệ, đáp ứng được sự kỳ vọng của người dân. Năm 2002, ngôi đền mới được phục dựng có kiến trúc đẹp, quy mô lớn, dù không còn mái ngói rêu phong cổ kính in bóng thời gian, nhưng nét thâm nghiêm linh thiêng vẫn còn hiện hữu, việc sưu tầm tài liệu, hiện vật đã bị lưu tán ngày càng được quan tâm và có hiệu quả. Giờ đây đền Phúc Lai trở thành một di tích lịch sử - văn hoá thu hút đông đảo du khách gần xa cứ đến ngày sóc vọng, lễ Tết trong năm tụ về lễ viếng, vãn cảnh. Nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, năm 2005, UBND tỉnh Hà Tĩnh ra quyết định xếp hạng Đền Phúc Lai là di tích lịch sử - văn hoá cấp tỉnh. Sự kiện này một mặt khẳng định truyền thống văn hoá lâu đời mang bản sắc riêng của vùng đất văn vật Hữu Bằng, mặt khác là cơ sở để các cấp chính quyền, các ngành hữu quan và nhân dân có trách nhiệm hơn nữa trong việc gìn giữ, phát huy những giá trị nhân văn cao cả của di tích trong công cuộc xây dựng quê hương, đất nước ngày nay./.