Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Đền Đông Xá hiện tọa lạc ở thôn Đông Xá, phường Đậu Liêu, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh; là nơi thờ tự 2 vị thần có vị hiệu: Hiển liệt Cao danh Đôn hậu Đoan túc Dực bảo Trung hưng Đô Nam nhạc Ô Trà sơn Linh thông Trấn quốc chi thần- tức Võ Sùng Ban và Đoan túc Dực bảo Trung hưng Thượng trụ Cương Quốc công chi thần - tức Nguyễn Xí. Bên cạnh đó, đền còn phối thờ thêm vị công thần khai quốc triều Lê là Võ Mục Đại Vương Lê Khôi.
Đền Đông Xá không rõ được khởi dựng từ năm nào, nhưng theo các bậc cao niên cho biết, từ thế kỉ XVIII, đền đã uy nghi tồn tại ở bên dốc núi Hồng. Đến thời nhà Nguyễn, các triều vua đã nhiều lần ban cấp sắc phong “cho thôn Đông Xá, xã Độ Liêu, huyện Thiên Lộc phụng thờ như trước”.
Về thần Đô Nam Nhạc Ô Trà Sơn - Võ Sùng Ban
Đô Nam Nhạc Ô Trà Sơn chính là ông Võ Sùng Ban - một võ quan dưới triều nhà Lý (thế kỉ XI). Ngay từ nhỏ, ông vốn là cậu bé thông minh, 8 tuổi đã biết đọc sách làm văn, lớn lên thích võ nghệ. Năm 18 tuổi ông đã được bổ nhiệm làm quan. Dưới triều Lý Nhân Tông, Võ Sùng Ban làm đến chức Điện tiền Tướng quân, có công lớn trong việc cầm quân đánh giặc Chiêm Thành, mở mang bờ cõi. Trong một lần cầm quân xông pha nơi chiến trận, ông bị trọng thương, trên đường trở về đến đoạn Hoàng Giang (tức sông Hạ Vàng) dưới chân núi Hồng Lĩnh thì ông bị mất. Triều vua nhà Lý đã có sắc chỉ phong ông là “Đô Nam Nhạc Ô Trà Sơn Đại Vương”, ra chỉ dụ giao cho nhân dân vùng Tổng Nội Ngoại Thiên Lộc (nay là xã Thuần Thiện và xã Thiên Lộc, huyện Can Lộc) - nơi ông đóng quân lập đền thờ tự và được phong thần bảo hộ của làng.
Thần phả lưu giữ tại đền Ô Trà Sơn [1] ở xã Thuần Thiện, huyện Can Lộc lập năm Tự Đức thứ 33 (1880) chép: “Vị linh thần vốn là tướng công họ Võ, tên tự là Sùng Ban, được triều đình nhà Lý ra sắc chỉ ban phong chức Điện tiền Dương Lộc bá, giao bản tổng (Nội Ngoại) phụng thờ. Ngài sinh từ triều nhà Lý, lên 8 tuổi đã thông văn tự, lớn lên đi theo nghề võ, 18 tuổi được gọi ra làm quan dưới triều vua Lý Nhân Tông (1072-1128), được giao chức Thượng Quốc công. Vâng mệnh đi đánh giặc, đi qua xứ Gôi Tắt (?) thuộc địa phận dân thôn này. Trong một đêm vượt qua sông Hoàng (sông Nghèn, Hạ Vàng ngày nay) đến chân núi Hồng Lĩnh thì mất tại đó. Từ đó tại vùng đất này lập miếu thờ phụng. Đến triều Lê, lần lượt được sắc phong tiếp tục phụng thờ. Sắc ghi: Thần là bậc linh thông, hiệu là Đô Nam Nhạc Ô Trà Sơn, giữ nước, bảo vệ dân, qua các triều đại đều được phong tặng mỹ hiệu Đông Ngưng, Dực bảo trung hưng, nay gia phong Hiển liệt cao danh Thượng thượng đẳng tối linh thần”.[2]
Các triều đại phong kiến cho rằng, thần “uy trời trợ giúp khắp mọi miền, âm thầm giúp vua giữ yên bờ cõi, công thần lớn lao xứng đáng được vinh phong gia ban lễ trật”, vậy nên năm Thiệu Trị thứ 3 (1843) ban sắc ca ngợi công lao, phong cho Đô Nam Nhạc Ô Trà Sơn mỹ tự “Thần Hiển liệt Hồng danh Đô Nam Nhạc Ô Trà Sơn” đầy sự biết ơn và trân trọng:
“Sắc cho Thần Hiển liệt Hồng danh [3] Đô Nam Nhạc Ô Trà Sơn Linh thông Trấn quốc, bảo vệ nước che chở dân, tỏ rõ linh ứng, qua các kỳ lễ tiết đã được ban tặng sắc phong, chuẩn cho phụng thờ. Nay Trẫm gánh vác mệnh cả, tưởng nhớ ơn thần, nên đáng tặng thêm [mỹ tự] là Thần Hiển liệt Hồng danh Đôn hậu. Vẫn cho phép thôn Đông Xá, xã Độ Liêu, huyện Thiên Lộc phụng thờ như trước. Thần hãy giúp đỡ, che chở và bảo vệ dân ta”.
Năm Tự Đức thứ 33, thần Đô Nam Nhạc Ô Trà sơn lại tiếp tục được phong sắc:
“Sắc cho thôn Đông Xá, xã Độ Liêu, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh từ trước phụng thờ vị Thần Hiển liệt Cao danh Đôn hậu Đoan túc Đô Nam nhạc Ô Trà sơn Linh thông Trấn quốc, qua các kỳ lễ tiết đã được ban cấp sắc phong, chuẩn cho phụng thờ. Năm Tự Đức thứ 31 (1878), gặp dịp Trẫm mừng đại lễ ngũ tuần, đã ban chiếu báu ơn sâu, có lễ trọng thăng trật, đặc biệt cho phép được phụng thờ như trước để ghi nhớ ngày lễ lớn của nước mà thêm rộng điển thờ”.
Thần Thượng trụ Cương Quốc công - Nguyễn Xí
Nguyễn Xí sinh năm Đinh Sửu (1397) ở làng Thượng Xá, huyện Chân Phúc, nay là xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Ông là người có công lớn trong việc đánh tan quân Minh, giúp vua Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, là một trong những vị khai quốc công thần triều Lê.
Trong cuộc đời làm quan của mình, Nguyễn Xí đã phụng sự 4 triều đại vua Lê: Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông, Lê Thánh Tông và đảm nhận nhiều chức vụ quan trọng của triều đình lúc bấy giờ.
Ông nội Nguyễn Xí là Nguyễn Hợp, cha là Nguyễn Hội. Nguyễn Hợp dời nhà đến sống tại làng Thượng Xá, huyện Chân Phúc. Tại đây, hai cha con Nguyễn Hợp, Nguyễn Hội cùng khai dân lập ấp, mở mang nghề làm muối. Nguyễn Hội sinh hai con trai là Nguyễn Biện và Nguyễn Xí. Cha con Nguyễn Hội và Nguyễn Biện thường chở muối ra bán ở vùng Lương Giang, huyện Thiệu Hoá - Thanh Hoá, do đó rất thân quen với Lê Lợi khi đó là phụ đạo ở Lam Sơn.
Năm lên 9 tuổi (1405), Nguyễn Xí đến gặp Lê Lợi lần đầu. Cùng năm ấy, cha ông bị hổ vồ chết tại quê nhà Thượng Xá, ông theo anh đến làm người nhà Lê Lợi. Lớn lên, Nguyễn Xí vũ dũng hơn người, được Lê Lợi yêu như con.
Lê Lợi sai ông nuôi hơn 100 con chó săn, ông dùng tiếng nhạc làm hiệu lệnh, bầy chó nghe theo, lúc đến, lúc đi đều nhau như một. Lê Lợi khen ngợi, cho là có tài làm tướng.
Năm 1418, mùa xuân, tháng Giêng, ngày Canh Thân, Lê Lợi xưng Bình Định vương phát động khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Xí cùng tham gia.
Suốt cuộc đời tham gia cầm quân, ông lập được nhiều chiến công vang dội cùng nghĩa quân Lam Sơn. Năm 1428, Nguyễn Xí được phong chức Long hổ tướng quân Suy trung bảo chính công thần.
Năm 1429, khi khắc biển công thần, Nguyễn Xí được xếp hàng thứ 5, được phong làm Huyện hầu.
Năm 1437, đời Lê Thái Tông, ông làm chức Quan Chính sự, kiêm Tri từ tụng.
Năm 1442, vua Lê Thái Tông mất, ông cùng Trịnh Khả, Lê Thụ nhận di chiếu phò vua Lê Nhân Tông.
Năm 1462, ông được phong chức Nhập nội hữu Tướng quốc. Năm 1463 lại được phong chức Thái uý.
Năm 1465, sau khi Nguyễn Xí qua đời, nhà vua vô cùng thương tiếc đã truy tặng Nguyễn Xí tước “Thái Sư Cương Quốc Công, đặc ai khai quốc, thụy Nghĩa Vụ”. Thi hài của ông đã được nhà vua cho bảo quản ở điện Kính Thiên và tổ chức lễ tang theo nghi lễ như một quân vương. Sau đó, linh cữu ông được xã Nghi Hợp mai táng, giao cho con cháu dòng họ và nhân dân quê nhà lập đền thờ phụng, khắc văn bia tưởng nhớ muôn đời.
Vùng đất Hà Tĩnh có rất nhiều nơi lập đền thờ Thượng trụ Cương Quốc Công Nguyễn Xí để tỏ lòng ngưỡng mộ, ơn sâu trong đó có đền Đông Xá, phường Đậu Liêu, thị xã Hồng Lĩnh. Năm Thành Thái thứ 6 (1894) và năm Khải Định thứ 9 (1924) đều có sắc phong ban tặng cho đền.
Điều đặc biệt, hiện đền vẫn còn lưu giữ bản sắc phong ngày 11, tháng 8, năm Duy Tân thứ 3 (1909) ban cho thôn Đông Xá “tòng tiền phụng sự” hai vị tôn thần: “Sắc cho thôn Đông Xá, xã Độ Liêu, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh từ trước đã phụng thờ các vị: Thần Hiển liệt Cao danh Đôn hậu Đoan túc Dực bảo Trung hưng Đô Nam Nhạc Ô Trà Sơn Linh thông Trấn quốc, Thần Đoan túc Dực bảo Trung hưng Thượng trụ Cương Quốc công, qua các kỳ lễ tiết đã được ban cấp sắc phong, chuẩn cho phụng thờ. Năm Duy Tân thứ nhất (1907), nhân đại lễ nhà vua lên ngôi, đã ban chiếu báu ơn sâu, lễ trọng thăng trật, đặc biệt cho phép được phụng thờ như trước, để ghi nhớ ngày lễ lớn của nước mà mở rộng điển thờ”.
Đức Thánh Đại Vương - Lê Khôi
Ngoài hai vị tôn thần Đô Nam Nhạc Ô Trà Sơn và Thượng Trụ Cương Quốc Công Nguyễn Xí, đền Đông Xá còn phối thờ thêm Đức Thánh Đại Vương Lê Khôi. Ngôi điện nhỏ được xây dựng bên cạnh đền chính, nhân dân trân trọng gọi là điện thờ Đức Thánh Hai.
Lê Khôi (? - 1446), thụy Võ Mục, công thần khai quốc nhà Lê Sơ. Ông là con trai của Lê Trừ - anh thứ hai của Lê Lợi, tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, lập nhiều công lao.
Đất nước thái bình, Lê Thái Tổ lên ngôi thiết lập triều đại mới. Tháng 2 năm 1428, triều đình nhà Lê định công ban thưởng cho các tướng lĩnh có công lao, Lê Khôi được phong Kì Lân Hổ Vệ thượng tướng quân, hàm Nhập nội thiếu úy, tước Đình Thượng hầu.
Năm 1431, Lê Khôi được điều làm trấn thủ Hóa Châu. Là nơi biên cương phía nam Đại Việt, thời gian này thường xuyên bị Chiêm Thành quấy nhiễu. Bằng uy đức của mình, ông đã làm cho phía Chiêm Thành kính nể không còn dám gây sự, để nhân dân yên ổn sinh sống. Cũng trong năm này, Lê Khôi được điều động về kinh thành cùng đội quân triều đình tiến lên Thái Nguyên, lập công xuất sắc tiêu diệt cuộc nổi loạn của Bế Khắc Thiện và Nông Đắc Thái. Với chiến công đó, ông được thưởng kim phù và áo bào, vua Lê hết sức tin tưởng và trọng vọng.
Năm 1443, đời vua Lê Nhân Tông, Lê Khôi được điều vào Nghệ An làm Tổng trấn Hoan Châu. Ở đây, ông chăm lo đời sống cho nhân dân, khai hoang, mở đất, đắp đê hai bên bờ sông La, sông Lam, miễn giảm thuế, thúc đẩy phát triển kinh tế. Năm 1446, ông lại được tăng viện vào đội quân của Đô đốc Lê Khả, Lê Thụ, Lê Khắc Phục, đem quân nam tiến chinh phạt Chiêm Thành. Đại quân liên tiếp giành thắng lợi. Nhưng không may, trên đường trở về, Lê Khôi lâm bệnh nặng rồi mất ngày 3/5 năm Bính Dần (1446) dưới chân núi Nam Giới. Mất đi Lê Khôi, nhà vua vô cùng thương xót, cho bãi triều 3 ngày, đồng thời sai quan Hữu ty vào tận nơi ông mất, làm lễ an táng mộ phần và cho dựng đền thờ trên ngọn núi Long Ngâm [4].
Sách An Tĩnh Cổ Lục (Le Vieux An Tinh) của H. Le Breton chép: “Sau một cuộc viễn chinh thắng lợi trở về, Lê Khôi rời thuyền lên bộ dưới chân núi Long Ngâm và chết một cách đột ngột (1447). Chính trên mảnh đất đó người ta đã dựng đền thờ”. [5]
Năm Dương Hòa thứ 7, triều vua Lê Hiển Tông (1497- 1504), Bộ Lễ tâu vua biết “đền nằm sát cửa biển, sóng to gió lớn bất thường làm cho việc thờ cúng rất khó thực hiện”. Chính vì lẽ đó, nhà Vua sai dựng một ngôi đền khác ở thôn Nguyên Phúc, xã Triều Khẩu [6] - Nơi đặt trụ sở Nghệ An lúc bấy giờ để tiện cho các quan tế lễ. Đền này về sau giao cho nhân dân 3 thôn Phúc Xuyên, Quang Dụ, Hưng Phúc thờ phụng.
Tương truyền, trên đường rước linh vị của Ngài từ đền Cửa Sót ra Triều Khẩu, đoàn tùy tùng đã dừng chân tại ngôi đền Đông Xá để nghỉ ngơi, đồng thời lập đàn để nhân dân được thắp hương hành lễ với linh vị của Ngài. Từ đó, nhân dân Độ Liêu dựng thêm điện thờ nhỏ - còn gọi là điện thờ Đức Thánh Hai bên cạnh ngôi đền Đông Xá để thờ Ngài.
Tại đền Đông Xá, mỗi năm vào ngày 03/3 âm lịch, nhân dân mua sắm hương đăng trà quả tổ chức lễ tế chung các vị thần ở đền. Ngày 04/5 âm lịch là ngày giỗ Đức Thánh Đại Vương Lê Khôi cũng được nhân dân bày biện lễ nghi chu đáo để tỏ lòng thành kính sâu sắc tới Ngài.
Thời nhà Nguyễn, đền được xây dựng khang trang, đẹp đẽ và uy nghi. Trải qua biến thiên lịch sử, chiến tranh và khắc nghiệt của thời tiết, ngôi đền nhiều lần hư hỏng và trở thành phế tích. Các đồ tế khí, sắc phong của đền bị phân tán, một số sắc phong còn lại được hợp tự về cất giữ ở đền thờ Bùi Cầm Hổ. Năm 2010, được sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, nhân dân Đậu Liêu đã đóng góp nhân tài vật lực, quyết tâm đồng lòng phục dựng lại ngôi đền thiêng trên nền móng cũ. Hiện nay, vẫn còn 4 viên đá táng kê cột và hai cột nanh cũ đã được tôn tạo lại.
Đền Đông Xá được xây dựng bên sườn dốc núi Hồng với thế đất đẹp. Thế núi ở đây hình vòng cung như ôm trọn ngôi đền từ phía sau, truyền thống gọi là “Kim Tinh sơn”(núi sao vàng). Thế núi như vậy chắc chắn, tàng phong, tụ khí, sức sống vượng nhất. Các công trình kiến trúc của đền được bố trí trải dài theo chiều cao từ tây sang đông. Phía trước là vùng thấp trũng, có lạch nước chảy qua, tạo không khí trong lành, vạn vật sinh trưởng tự nhiên tươi tốt. Công trình kiến trúc gồm có: cổng di tích vốn được tôn tạo lại trên cơ sở hai cột nanh có từ thời Nguyễn, đã bị chiến tranh tàn phá nhưng chưa bị hư hỏng hoàn toàn, cột cao 4m, đỉnh cột gắn nghê chầu bằng sứ màu xanh lam, thân cột mặt đều gắn câu đối bằng chữ Nôm;
Bái đường 3 gian được làm bằng hệ thống cột trụ, xà ngang, xà dọc và vì kèo bằng bê tông cốt thép giả gỗ cao 4,50m. Diện tích mặt bằng 5,35m x 7,20m. Các gian được phân chia bởi 2 hàng cột cái ở giữa chia bái đường thành 3 gian có kích thước khác nhau, tạo không gian của gian giữa rộng hơn hai gian bên: Cột cách cột chiều dọc 2,75m; cột cách cột chiều ngang 2,50m; cột cách tường bên 1,30m. Hai bên bái đường xây tường bít đốc. Mái bái đường được lợp ngói máy, trên đỉnh mái gắn lưỡng long chầu nguyệt. Các góc mái gắn đầu đao hình rồng.
Trung điện 3 gian, hai hồi xây tường bít đốc, cao 4,10m; xây dựng trên mặt bằng có diện tích 7,30 x 5,35m. Bộ khung trung điện được cấu tạo bởi hệ thống cột trụ tròn, trụ vuông, liên kết với hệ thống xà ngang xà dọc bằng bê tông cốt thép giả gỗ. Khoảng cách giữa các cột hàng ngang: cột đến cột cách 2,50m; cột đến tường cách 2,30m. Hàng dọc khoảng cách cột đến cột 2,75m, cột đến tường 1,30m. 4 cột trụ tròn chính giữa trung điện được kê trên 4 viên đá kê chân cột là di vật cũ còn sót lại của đền. Mái trung điện lợp ngói máy, phía trong mái được trần tôn chống nóng.
Mỗi gian của trung điện đều được bố trí 2 hương án. Hương án phía trong, nơi sâu nhất đặt long ngai bài vị của thần; hương án phía ngoài bố trí lư hương, cọc nến, mâm chè đài trản cùng đồ tế lễ.
Điện thờ Lê Khôi thường được nhân dân gọi là Điện thờ Đức Thánh Hai xây dựng phía bên phải, cách đền chính 12m. Diện tích mặt bằng: 6,60m x 4,10m. Điện thờ có kiến trúc đơn giản, 3 bên xây tường bít đốc, phía trước trổ cửa rộng 3,50m.
Phần mái kiến trúc kiểu hồi văn, 2 hồi 4 mái, được nâng đỡ bởi hệ thống tường đốc bằng bê tông cốt thép. Trên lợp ngói máy, đỉnh nóc gắn hình lưỡng long chầu nguyệt, các góc mái gắn đầu đao cong vút.
Dù đã trải qua nhiều biến thiên lịch sử, nhưng đến hôm nay đền Đông Xá với vẻ đẹp bình dị vẫn bảo lưu được những giá trị văn hóa, thể hiện tinh thần uống nước nhớ nguồn của dân tộc ta.
Ghi chú:
[1] Đền Ô Trà Sơn tại xã Thuần Thiện, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh được xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh năm 2006.
[2] Thái Kim Đỉnh phiên âm, dịch nghĩa.
[3] Mỹ tự vua ban, chỉ công lao to lớn, danh tiếng rạng ngời của thần.
[4] Ngọn núi cuối cùng của dãy Nam Giới, từ đất liền uốn lượn ra đến biển làm bức bình phong để án ngữ phía đông cửa Sót. Núi Long Ngâm có hình thù như trán con rồng chúi xuống biển sâu.
[5] Sách “An Tĩnh cổ lục” tác giả Hippolite Le Breton, trang 118-119. Đền Chiêu Trưng Đại Vương Lê Khôi nay thuộc địa phận xã Thạch Bàn, huyện Thạch Hà, là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia năm Năm 1990. Năm 2017, Bộ VH-TT-DL quyết định đưa lễ hội đền Chiêu trưng Đại vương Lê Khôi vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia).
[6] Triều Khẩu là vùng đất ven bờ sông Lam, thuộc huyện Hưng Nguyên- Nghệ An. Tương truyền, đất Triều Khẩu xưa được xem là vùng đất linh thiêng, in đậm những chiến tích hào hùng của Lê Lợi chống quân xâm lược nhà Minh.Vào năm 1470, vua Lê Thánh Tông cho xây đền thờ các vua Lê. Đến triều Chính Hòa (cuối thế kỷ 17), vua Lê Hy Tông tiếp tục rước linh vị Lê Thái Tông và Lê Thánh Tông về đây cùng với gian thờ hổ tướng Lê Khôi.