Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Chùa Thanh Quang là ngôi chùa cổ có từ thời Lê, nằm ở vùng ven biển xã Thạch Hải, xưa có tên là chùa Yên Nhân, lấy theo tên làng thời đó là làng Yên Nhân (thuộc xã Hoa Mộc, huyện Thạch Hà, phủ Hà Hoa, trấn Nghệ An). Ngôi chùa cổ kính nằm trong một khu đất rộng rãi, dựa vào ngọn đồi nhỏ, lối vào chùa có hàng dừa rợp bóng và hồ sen tươi mát, tất cả tạo nên một khung cảnh vừa thâm nghiêm vừa yên bình. Nhưng tạo nên nét độc đáo cho ngôi chùa lại là lối kiến trúc tiền Mẫu hậu Phật: phía trước là điện thờ Mẫu Liễu Hạnh, phía sau là chùa thờ Phật.
Toàn cảnh chùa Thanh Quang
Tín ngưỡng dân gian Việt Nam xuất phát từ nhu cầu gửi gắm mong ước cuộc sống của con người tới các đấng thánh thần siêu nhiên, từ đó hình thành nên những đền, miếu, phủ, đình, là nơi tôn thờ các vị thần (Thành hoàng làng, Quan Công, Thổ địa, Thần tài…), thờ Mẫu (Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thoải,Mẫu Thượng Ngàn, Tứ vị Thánh nương…), tín ngưỡng phồn thực v.v…Tín ngưỡng này có lịch sử gắn liền với lịch sử hình thành những tổ chức xã hội đầu tiên ở nước ta. Còn Phật giáo có khởi nguồn từ Ấn Độ, du nhập vào Việt Nam khoảng thế kỷ I TCN, tuy nhiên Phật giáo Việt hình thành từ nhiều con đường mà ảnh hưởng lớn nhất là từ Trung Quốc. Tương ứng với các con đường du nhập là các hệ phái lớn: hệ phái Bắc Tông chủ yếu hoạt động ở miền Bắc và Bắc Trung Bộ, hệ phái Nam Tông có ảnh hưởng lớn ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Triết lý nhà Phật tương đồng với quan niệm, lối sống và mong ước của đại đa số cư dân Việt nên nhanh chóng được đón nhận, và hơn nữa khả năng hòa nhập, gắn kết vào đời sống thường ngày của tôn giáo này rất cao, dần dần không chỉ những ngôi chùa lớn mới có Phật, mà chính trong nhiều kiến trúc thờ tự khác cũng có bóng dáng Phật.
Tượng Phật Tam thế chùa Thanh Quang
Gọi là chùa nhưng chùa Thanh Quang là một phức hợp công trình của các loại tín ngưỡng bản địa và Phật giáo. Loại hình thờ cúng này bắt gặp ở nhiều nơi, thông thường là tiền Phật hậu Thánh, nghĩa là phía trước là gian thờ Phật, hậu đường mới là nơi thờ các vị Thánh. Còn ở chùa Thanh Quang, từ ngoài cổng đi vào du khách sẽ bắt gặp một kiến trúc hình chiếc kiệu, lưng kiệu quay ra ngoài, mặt trước hướng vào trong. Đấy là điện thờ Mẫu Liễu Hạnh. Nhân dân trong vùng rất sùng bái, kính ngưỡng vị Thánh Mẫu, nghi lễ hàng năm luôn thu hút đông người đến tham dự. Có tích nói rằng, sở dĩ tên chùa ban đầu là Yên Nhân Tự sau đổi thành Thanh Quang Tự cũng do Thánh Mẫu dạy cho, cho thấy sự tôn sùng của nhân dân đối với Bà.
Mặt điện thờ quay vào trong, đối diện với cửa chùa. Chùa quy mô nhỏ vừa, bài trí rất tinh gọn. Trong chùa vẫn còn giữ lại được một số tượng Phật được đúc từ thời Tây Sơn: Phật Tam thế, Bồ tát, Thích Ca Mâu Ni (riêng tượng Thích Ca Mâu Ni thì đã mất, chỉ còn lại bệ Cửu Long bằng gỗ). Hệ thống tượng phật của chùa không nhiều, kích thước tượng cũng vừa nhỏ, lại có những nét độc đáo mang đậm sắc thái văn hóa vùng miền: có tượng trong tay cầm tháp ngọc, có tượng trong tay cầm con ốc, lại có tượng Bồ tát dưới hình hài người đàn ông. Cho đến nay các hóa thân Phật trên vẫn là đề tài đang được tìm hiểu để biết thêm vì thế giới quan tâm linh của cư dân vùng ven biển này.
Chuông đồng thời Tây Sơn
Ngôi chùa cũng là lưu giữ một chiếc chuông đúc vào thời vua Cảnh Thịnh (triều Tây Sơn). Chiếc chuông cổ này nặng 37kg, cao 67cm, đường kính miệng 40cm. Quai chuông được đúc thành hình rồng uốn lượn, hình dáng mạnh mẽ. Thân chuông trang trí một số hoa văn, trong đó chứa một phần của văn tự viết bằng chữ Hán, các thông tin được lưu lại là một nguồn tài liệu quý báu để các nhà nghiên cứu tìm hiểu thêm về vùng đất Hà Tĩnh thời kỳ Tây Sơn. Đặc biệt trong chùa còn có một giếng cổ Champa, loại hình di tích chứng minh sự tồn tại của nền văn hóa Champa trên đất Hà Tĩnh bên cạnh các nền văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Đông Sơn.
Có thể thấy, trong quần thể di tích chùa Thanh Quang có một sự tổng hợp và giao hòa nhiều loại hình tín ngưỡng văn hóa với nhau, không xung đột nhau mà ngược lại còn làm phong phú thêm đời sống tinh thần của nhân dân từ bao đời nay. Điều đó phản ánh một tâm thức của người Việt: sống chan hòa, tình cảm và bao dung. Đó cũng là nền tảng tính cách xã hội để con người ứng xử với nhau với nhau trong cuộc sống hiện đại ngày nay.