Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Bia đá cổ là một loại hình di sản văn hóa vật thể đặc biệt, là nguồn tư liệu gốc chứa đựng nhiều thông tin quý giá phản ánh nhiều mặt của đời sống xã hội trong quá khứ như lịch sử, văn hóa, giáo dục, tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục, tập quán... Hà Tĩnh là một tỉnh nhằm trong vùng văn hóa xứ Nghệ có truyền thống lịch sử, văn hóa giàu bản sắc. Trải qua thời gian và biến thiên của lịch sử, mảnh đất này đã để lại nhiều di sản văn hóa, trong đó có loại hình cổ vật bia đá. Bia đá cổ ở tỉnh Hà Tĩnh là văn bia chữ Hán Nôm, niên đại từ thời Hậu Lê cho đến thời Nguyễn. Trong số đó, bia đá cổ thời Lê Trung Hưng ở tỉnh Hà Tĩnh chiếm số lượng lớn và nội dung phong phú nhất.
Hà Tĩnh là vùng địa linh nhân kiệt nằm ở khu vực Bắc Trung Bộ, phía bắc giáp tỉnh Nghệ An, phía nam giáp tỉnh Quảng Bình, phía tây giáp nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, phía đông giáp biển Đông. Với thời tiết khá khắc nghiệt, tỉnh Hà Tĩnh có mùa đông lạnh, mùa xuân mưa phùn, ẩm ướt, mùa hè khô nóng bởi gió phơn Tây Nam thổi, mùa thu thường bị ảnh hưởng bởi bão lũ. Về địa hình, tỉnh Hà Tĩnh có núi cao ở phía tây, đồng bằng xen kẻ ở giữa và vùng ven biển với hệ động thực vật phong phú và đa dạng.
Với điều kiện tự nhiên như vậy, từ thời tiền sử hàng nghìn năm trước, tỉnh Hà Tĩnh đã con người đến sinh sống. Họ tập trung ven núi, ven sông và ven biển để thuận lợi của việc tụ cư lâu dài. Các di tích khảo cổ học thời hậu kỳ đá mới như Thạch Lạc, Rú Điệp, Rú Trò, Cồn Lôi Mốt, Bãi Diền Diền ở huyện Thạch Hà, Rú Dầu ở huyện Đức Thọ, Phôi Phối ở huyện Nghi Xuân đã chứng minh con người có mặt ở đây ít nhất từ 4000 đến 5000 năm. Trong suốt thời kỳ lịch sử, cộng đồng người Hà Tĩnh cùng với cả nước đã cùng nhau dựng nước và giữ nước, chống lại thiên tai và địch họa. Thời kỳ nào, tỉnh Hà Tĩnh cũng có các danh nhân, anh hùng hào kiệt trên tất cả các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao. Tiêu biểu trong số đó có Mai Thúc Loan, Đào Tiêu, Nguyễn Biểu, Đặng Tất, Đặng Dung, Lê Hữu Trác, Nguyễn Huy Oánh, Nguyễn Thiếp, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Phan Đình Phùng. Chính họ cùng với quần chúng nhân dân thông qua lao động và sản xuất đã góp công sáng tạo nhiều di sản văn hóa quý giá còn tồn tại cho đến ngày nay như dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh[1], Lễ hội đền Chiêu Trưng, Lễ hội Cầu Ngư Nhượng Bạn[2], Mộc bản Trường học Phúc Giang, Hoàng hoa sứ trình đồ[3], di tích Đại thi hào Nguyễn Du, Môn Hạ sảnh ấn, tam vị thần công “Bảo Quốc An Dân Đại Tướng Quân”, bia Sùng Chỉ[4], chuông Chùa Rối thời Trần, đặc biệt là hệ thống bia đá cổ.
Bia đá ở nước ta thường có 2 mặt hoặc 4 mặt. Ở tỉnh Hà Tĩnh, theo thống kê của Bảo tàng tỉnh Hà Tĩnh, bia đá hiện có chủ yếu ở các di tích lịch sử - văn hóa như đình, đền, chùa, miếu, nhà văn thánh, nhà thờ họ và những nơi công cộng. Hiện nay có 84 bia đá nằm ở các huyện, thị, thành phố trong đó Can Lộc 22, Cẩm Xuyên 3, Đức Thọ 13, Lộc Hà 7, Nghi Xuân 10, Hương Sơn 8, Kỳ Anh 4, Thạch Hà 4, thị xã Hồng Lĩnh 3, thành phố Hà Tĩnh 4 và 6 bia khắc chữ Quốc Ngữ.
Nguyễn Tướng công bi ký tại Đền thờ Nguyễn Văn Giai - Lộc Hà
Thời Lê Trung Hưng hay nhà Lê Trung Hưng có nhiều bia đá cổ. Đây là thời kỳ dài nhất trong số các triều đại phong kiến Việt Nam 256 năm, được bắt đầu bởi vua Lê Trang Tông từ năm 1533 và kết thúc vào năm 1789 trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam với việc Nguyễn Huệ, phong trào Tây Sơn lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung, đánh tan quân Thanh xâm lược. Triều đại này có 17 đời vua: Lê Trang Tông (1533 – 1548), Lê Trung Tông (1548 – 1556), Lê Anh Tông (1556 – 1573), Lê Thế Tông (1573 – 1599), Lê Kính Tông (1599 – 1619), Lê Thần Tông (1619 – 1643 và 1649 - 1662), Lê Chân Tông (1643 – 1649), Lê Huyền Tông (1663 – 1671), Lê Gia Tông (1672 – 1675), Lê Hy Tông (1675 – 1705), Lê Dụ Tông (1906 – 1729), Lê Duy Phường (1729 – 1732), Lê Thuần Tông (1732 – 1735), Lê Ý Tông (1735 – 1740), Lê Hiển Tông (1740 – 1786), Lê Chiêu Thống (1786 – 1788).
Thời Lê Trung Hưng là giai đoạn vùng đất Hà Tĩnh còn thuộc trấn Nghệ An (Bao gồm cả tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Nghệ An ngày nay) là nơi diễn ra nhiều sự kiện lịch sử đã được các nguồn sử liệu khẳng định. Nổi bật, thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, đây là nơi tiếp giáp giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài, là bãi chiến trường ác liệt của cuộc nội chiến Trịnh - Nguyễn, cư dân phải sống trong điều kiện khó khăn, nhiều người trong số đó phải tha phương, cầu thực, một số khác được huy động vào cuộc nội chiến tương tàn. Điều đó được thể hiện qua các di sản văn hóa vật thể như di tích lịch sử - văn hóa, sắc phong, bằng cấp, tiền cổ, bia ký nằm rải rác trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, tập trung chủ yếu ở các huyện ven biển như Kỳ Anh, Thạch Hà, Can Lộc, Cẩm Xuyên, Lộc Hà, Nghi Xuân. Nhiều sắc phong còn lưu giữ tại các nhà thờ họ, đền, miếu được các vị vua nhà Lê Trung Hưng phong chức bách hộ, thiên hộ, phấn lực tướng quân, đô chỉ huy sứ… cho những người làm việc trong quân đội khi lập công trong chiến trận.
Thứ hai là, thời Lê Trung Hưng cũng ghi nhận quá trình tụ cư, phát triển về xã hội, văn hóa, giáo dục ở tỉnh Hà Tĩnh. Đây là thời kỳ nổi lên các sĩ tộc có đóng góp lớn cho chính quyền Lê - Trịnh, đạt thành tích xuất sắc trong giáo dục, khoa cử và hoạn lộ, tiêu biểu dòng họ Nguyễn Huy - Trường Lưu, dòng họ Hà – Tùng Lộc, dòng họ Nguyễn - Tiên Điền, dòng họ Đinh Nho ở An Hòa Thịnh, dòng họ Nguyễn ở Ích Hậu. Dòng họ Nguyễn Huy ở làng Trường Lưu, nay thuộc xã Kim Song Trường, huyện Can Lộc có truyền thống Nho học, văn chương và khoa cử với nhiều đời, nhiều người đỗ đạt, làm quan như Nguyễn Như Thạch, Nguyễn Huy Tựu, Nguyễn Huy Oánh, Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Huy Cự, Nguyễn Huy Quýnh, Nguyễn Huy Kiên… Dòng họ này còn thành lập nên Trường học Phúc Giang xa kinh thành Thăng Long, làm mộc bản in sách giáo khoa, thu hút hàng ngàn người đến tầm sự học đạo và đào tạo nhiều người thi đỗ hàng chục tiến sĩ có đóng góp lớn cho phát triển văn hóa, chính trị, giáo dục, ngoại giao của đất nước. Dòng họ Nguyễn – Tiên Điền nổi bật đã sản sinh ra Tể tướng Nguyễn Nghiễm, Đại thi hào Nguyễn Du với Truyện Kiều thơ nôm bất hủ. Dòng họ Đinh Nho với Tiến sĩ Đinh Nho Công và Hoàng giáp Đinh Nho Hoàn. Dòng họ Hà ở Tùng Lộc với Hà Tông Chính, Hà Tông Trình, Hà Tông Mục. Dòng họ Nguyễn ở Ích Hậu với Nguyễn Văn Giai và các con cháu.
Thứ ba là, thời kỳ Lê Trung Hưng ở Hà Tĩnh cũng ghi nhận sự phát triển kinh tế, thương mại lưu thông hàng hóa, tiền tệ, đặc biệt là ngoại thương, đã hình thành thành nên phố cổ Phù Thạch bên bờ sông Lam buôn bán khá tấp nhập giữa người bản xứ và tàu buôn Nhật Bản, Phúc Kiến (Trung Quốc), tạo nên một giai đoạn thịnh vượng ở các thương cảng cửa biển Hà Tĩnh như Hội Thống, Cửa Sót, Cửa Nhượng, Cửa Khẩu.
Những đặc điểm như trên đã góp phần tạo nên một hệ thống di sản văn hóa còn gìn giữ được trong đó có bia đá thời Lê Trung Hưng giúp chúng ta có một nguồn tư liệu quý và khá phong phú để tìm hiểu nghiên cứu lịch sử, văn hóa, xã hội, mỹ thuật đương thời. Chắc rằng bia đá thời kỳ này được làm ra nhiều hơn số bia hiện có nhưng do biến thiên của lịch sử nên mất mát nhiều. Theo thống kê, hiện nay tỉnh Hà Tĩnh có 30 bia đá thời Lê Trung Hưng.
STT |
Tên bia |
Niên đại |
Địa điểm |
1 |
Trùng tu Gia Hưng tự bi |
1588 |
Xã Kim Song Trường – Can Lộc |
2 |
Văn Lý hầu Trần công bi ký |
1607 |
Xã Kim Song Trường – Can Lộc |
3 |
Ngô tướng công đường ký |
1651 |
Thị trấn Nghèn – Can Lộc |
4 |
Sùng Chỉ bi ký |
1696 |
Xã Tùng Lộc – Can Lộc |
5 |
Hương chỉ lễ tiết |
1793 |
Xã Tùng Lộc – Can Lộc |
6 |
Thần vũ bi ký |
1746 |
Xã Kim Song Trường – Can Lộc |
7 |
Nguyễn thị danh bi |
1748 |
Xã Kim Song Trường – Can Lộc |
8 |
Nguyễn Thám hoa gia phổ ký |
1754 |
Xã Kim Song Trường – Can Lộc |
9 |
Khoa giáp bi chí |
1755 |
Xã Thanh Lộc – Can Lộc |
10 |
Quan thị bi ký |
1756 |
Xã Kim Song Trường – Can Lộc |
11 |
Di phương thận mỹ chi bi |
1756 |
Xã Kim Song Trường – Can Lộc |
12 |
Nguyễn gia trang khoa danh điền bi ký |
1760 |
Xã Kim Song Trường – Can Lộc |
13 |
Hương hỏa điền bi ký |
1760 |
Xã Kim Song Trường – Can Lộc |
14 |
Nhâm Thìn khoa tiến sỹ đề danh bi ký |
1772 |
Xã Kim Song Trường – Can Lộc |
15 |
Phan gia hậu thần bi ký |
1699 |
Xã Tân Dân - Đức Thọ |
16 |
Bản huyện văn hội bi ký |
1735 |
Xã Trường Sơn - Đức Thọ |
17 |
Tạo thánh vũ bi |
1735 |
Xã Bùi La Nhân - Đức Thọ |
18 |
Nguyễn tướng công bi ký |
1697 |
Xã Ích Hậu - Lộc Hà |
19 |
Tôn hậu thần lập thường tự bi ký |
1714 |
Xã Thạch Châu - Lộc Hà |
20 |
Hậu thần bi ký |
1734 |
Xã Thạch Châu - Lộc Hà |
21 |
Tiên kiều bi ký |
1740 |
Thị trấn Tiên Điền – Nghi Xuân |
22 |
Hồng lưu phái diễn |
1762 |
Thị trấn Tiên Điền – Nghi Xuân |
23 |
Tích thiện gia huấn bi ký |
1765 |
Thị trấn Tiên Điền – Nghi Xuân |
24 |
Trùng tu Tam Tòa đại vương linh miếu bi ký |
1697 |
Xã Xuân Giang – Nghi Xuân |
25 |
Bia Đặng tướng quân |
|
Xã Xuân Hồng – Nghi Xuân |
26 |
Bia Đền Gôi Vị |
1708 |
Xã An Hòa Thịnh – Hương Sơn |
27 |
Lưu truyền vạn đại |
1759 |
Xã An Hòa Thịnh – Hương Sơn |
28 |
Lịch đại tổ sư luyện súng bi |
1714 |
Xã Kỳ Thư - huyện Kỳ Anh |
29 |
Sự tích bi |
1752 |
Xã Kỳ Châu - huyện Kỳ Anh |
30 |
Suy tôn phúc thần văn ký |
1678 |
Phường Thạch Linh – thành phố Hà Tĩnh |
Bia đá thời Lê Trung Hưng ở tỉnh Hà Tĩnh có kích thước vừa phải, chủ yếu được làm bằng đá thanh, thường có 3 bộ phận hợp thành là trán bia, thân bia và đế bia. Trán thường được trang trí cầu kỳ với các đề tài rồng, mặt trời, mây lửa. Mặt chính trán bia thường khắc chữ Hán lớn ghi tên bia, thường có chữ 碑記 (bi ký) sau cùng. Thân bia với diềm bia trang trí hoa dây cách điệu, hoặc đôi câu đối, mặt bia khắc chìm toàn văn chữ Hán Nôm, chữ ở thân bia thường ở thể chân thư, chân phương, rõ ràng, được bố trí theo từng dòng từ trên xuống dưới, từ phải sang trái, cuối phần văn bia thường có dòng lạc khoản ghi người viết văn bia và niên hiệu triều vua dựng bia. Đối với bia 2 mặt, thân bia thường khắc chữ ở mặt trước, đôi khi khắc cả 2 mặt trước và sau. Đối với bia 4 mặt, thường khắc chữ cả 4 mặt như bia Đặng tướng quân ở xã Xuân Hồng – Nghi Xuân. Đế bia thường được cấu tạo hình khối chữ nhật hoặc một số bia đế được tạo rùa đội bia như Lịch đại tổ sư luyện súng bi ở xã Kỳ Thư, huyện Kỳ Anh. Rùa đội bia thường không nguyên khối thường gắn với thân bia thông qua đóng chốt. Rùa là một trong tứ linh: Long, ly, quy, phượng; đội bia thường mang ý nghĩa trường cửu, vững chãi.
Nhìn chung về hình thức, bia đá cổ thời Lê Trung Hưng ở Hà Tĩnh còn lại khá nguyên vẹn và được các chủ sở hữu bảo quản khá tốt, là nguồn tư liệu để nghiên cứu mỹ thuật, thư pháp cổ. Tuy nhiên qua thời gian, chịu sự tác động của thiên nhiên và con người, một số bia đá bị mờ chữ nên việc nghiên cứu nội dung văn bia gặp nhiều khó khăn.
Bia đá thời Lê Trung Hưng ở tỉnh Hà Tĩnh có nhiều nội dung, bao gồm về giáo dục khoa cử; tiểu sử danh nhân; lịch sử dòng họ; xây dựng, tu bổ, tôn tạo di tích; phong tục, tập quán; hậu thần.
Bia đá cổ nội dung liên quan đến giáo dục, khoa cử: Khoa giáp bi chí, Nguyễn thị danh bi, Nhâm Thìn khoa tiến sỹ đề danh bi ký, Nguyễn gia trang khoa danh điền bi ký. Các di sản văn hóa này minh chứng cho truyền thống hiếu học và khoa cử ở vùng đất núi Hồng sông La. Khoa giáp bi chí ở xã Thanh Lộc ca ngợi mảnh đất khoa bảng “Kiệt Thạch tam khoa tam tiến sĩ” gồm Hoàng Hiền đỗ năm Mậu Tuất, niên hiệu Hồng Đức thứ 9 (1478); Nguyễn Cung đỗ năm Quý Sửu, niên hiệu Hồng Đức thứ 24 (1493) và Thái Kính đỗ năm Tân Mùi, niên hiệu Hồng Thuận thứ 3 (1511). Nguyễn thị danh bi là bia do dòng họ Nguyễn Huy - Trường Lưu dựng, ghi lại những người đỗ tiến sĩ khoa năm Mậu Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 9 (1748). Khoa thi có 13 người đỗ trong đó Nguyễn Huy Oánh, huyện La Sơn đỗ Thám hoa. Bia đề cập đến mục đích mở trường thi để các nhân tài rộng đường ra ứng thí, làm cho nho sĩ được vẻ vang, quốc gia thu phục được nhân tài. Việc đề danh lên bia đá giúp kẻ sĩ giữ lòng trong sạch, tiết tháo kiến trinh để tỏ sự hưng thịnh; bồi đắp nho phong và tôi mài sĩ khí. Nhâm Thìn khoa tiến sỹ đề danh bi ký là bia ghi danh tiến sĩ đỗ khoa Nhâm Thìn. Nội dung bia nêu lên tầm quan trọng của nhân tài và việc cần thiết nuôi dưỡng tài năng ở trường và dùng khoa mục để tuyển chọn. Bia ghi tên 13 người thi đỗ trong đó có Nguyễn Huy Quýnh, em của Thám hoa Nguyễn Huy Oánh dòng họ Nguyễn Huy - Trường Lưu. Nguyễn gia trang khoa danh điền bi ký của dòng họ Nguyễn Huy - Trường Lưu đề cập đến mục đích của việc lập ruộng khoa danh của Nguyễn Huy Tựu, cha Thám hoa Nguyễn Huy Oánh. Đó là để khen thưởng và biểu dương những người đỗ đạt. Truyền thống khuyến học này không chỉ có ở đây mà nhiều dòng họ khác còn duy trì đến ngày nay góp phần để Hà Tĩnh thành vùng đất học. Như vậy, bia đá có nội dung về giáo dục khoa cử đã thể hiện được tư tưởng trọng dụng, biểu dương những người đỗ đạt, khuyến học, khuyến tài, xây dựng nền trí trị để họ ra giữ trọng trách gánh vác giang sơn, giúp dân, giúp nước.
Bia đá cổ có nội dung văn bia ghi tiểu sử danh nhân: Văn Lý hầu Trần công bi ký, Sùng Chỉ bi ký, Nguyễn Tướng công bi ký, Bia Đặng Tướng quân, Sự tích bi. Trong số đó, Văn Lý hầu Trần công bi ký được Phùng Khắc Khoan soạn ghi lại cuộc đời và sự nghiệp của Thái bảo, Liêm quận công, Tổng Thái giám Trần Tịnh, người có công trong phát triển ngoại thương ở xứ Nghệ thời Lê Trung Hưng. Sùng Chỉ bi ký đề cập đến Hà Tôn Mục, xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc. Ông tên húy Lệnh, tự là Thuần Như. Đỗ đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thấn khoa Mậu Thìn (1688). Làm quan Đốc đồng hai xứ Tuyên Quang và Hưng Hóa. Nổi tiếng về văn học và ngôn từ. Năm Tân Mùi (1691), ông vâng lệnh khám xét và giữ yên biên giới phía Bắc, rất được lòng nhân dân nhờ đức vọng và tài thu phục lòng người. Nguyễn tướng công bi ký ghi lại cuộc đời, sự nghiệp, gia thế của Nguyễn Văn Giai, quê làng Ích Hậu, huyện Thiên Lộc, nay là xã Ích Hậu, huyện Lộc Hà. Ông là người đức cao vọng trọng, có nhiều đóng góp to lớn đối với chính quyền Lê - Trịnh. Ông làm đến chức Thiếu phó, Thiếu úy, Thái bảo, tước Tào Quận công. Việc dựng bia là để răn dạy con cháu tiếp nối truyền thống tổ tiên mà cố gắng đời đời hiển đạt. Bia Đặng tướng quân ghi lại cuộc đời và sự nghiệp của Khuông Lộc hầu Đặng Đình An, quê làng Trung Lao, xã Yên Lạc, nay là xã Xuân Hồng, huyện Nghi Xuân. Ông làm đến chức Tán trị công thần, Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân Tham đốc thần vũ, Tứ vệ quân vụ sự; có “tướng mạo đường đường, sức mạnh đến vạn dân phu cũng không địch được. Dung uy vời vợi có tài đảm đương đại sự…”. Sự tích bi ghi lại tiểu sử của Phạm Đình Mỗ, người làng Kinh Dao, huyện Giáp Sơn, phủ Kim Môn, tỉnh Hải Dương, Tiến sĩ năm Vĩnh Hựu thứ 5 (1739), làm đến chức Phó Đô ngự sử, Thiếu bảo Hải Quận công, Trấn thủ Nghệ An kiêm Bố Chánh châu, có công giữ yên triều chính, ổn định tình hình đất nước dưới thời Lê - Trịnh.
Bia đá cổ có nội dung văn bia ghi lịch sử dòng họ rất phổ biến ở Hà Tĩnh như: Nguyễn Thám hoa gia phổ ký, Tích thiện gia huấn bi ký, Di phương thận mỹ chi bi. Bia do dòng họ Nguyễn Huy - Trường Lưu, xã Kim Song Trường, huyện Can Lộc dựng khá nhiều, đã thể hiện được truyền thống Nho học, văn chương, khoa bảng, hoạn lộ của một sĩ tộc ở xứ Nghệ thời Lê Trung Hưng. Nguyễn Thám hoa gia phổ ký ghi lại phả hệ dòng họ Nguyễn Huy - Trường Lưu từ thời thuộc Đường, biết chi tiết từ đời thứ 8 là Nguyễn Uyên Hậu đến đời Thám hoa Nguyễn Huy Oánh. Nguyễn Uyên Hậu là người đầu tiên đỗ Ngũ kinh bác sĩ. Ngoài ra, văn bia cũng ghi lại thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Huy Oánh, người có công lớn hình thành nên hai di sản tư liệu Mộc bản Trường học Phúc Giang và Hoàng hoa sứ trình đồ được UNESCO công nhận. Tích thiện gia huấn bi ký là văn bia của dòng họ Nguyễn – Tiên Điền, huyện Nghi Xuân. Đây là dòng họ trâm anh thế phiệt dưới thời Lê Trung Hưng với những tên tuổi như Tể tướng Nguyễn Nghiễm, Đại thi hào Nguyễn Du... Việc dựng bia là để gia huấn việc tích thiện do tiền nhân gây dựng nên. Đó là lòng nhân hậu, liêm minh, các đời nối nghiệp văn chương, chăm chỉ học hành, là hiền thần trung quân; có tài thiên bẩm, nhiều người hiển đạt, rộng đường hoạn lộ. Bia Hồng lưu phái diễn ghi lại chi phái phát triển của dòng họ Nguyễn – Tiên Điền do Xuân Nhạc hầu bái dựng, Nguyễn Khản biên soạn. Di phương thận mỹ chi bi ghi lại tiếng thơm, truyền thống của dòng họ Phan thôn Vĩnh Gia, xã Lai Thạch, huyện La Sơn.
Bia đá cổ ghi lại việc công đức đóng góp hương hỏa có: Bia Đền Gôi Vị, Bia lưu truyền vạn đại, Hương hỏa điền bi ký, Hương chỉ lễ tiết, Thần vu bi kí trong đó Bia Đền Gôi Vị được Hoàng giáp Đinh Nho Hoàn, dòng họ Đinh Nho tu tạo ghi lại việc cúng cho thôn ấp hơn một nghìn một trăm thước ruộng để hương khói giữ lời hẹn ước với cha là Tiến sỹ Đinh Nho Công nơi chín suối.
Bia đá cổ có nội dụng về xây dựng, tu bổ, tôn tạo di tích có: Trùng tu Gia Hưng tự bi, Trùng tu Tam Tòa đại vương linh miếu bi ký, Bản huyện văn hội bi ký, Tiên Kiều bi kí, Tạo thánh vũ bi, Quan thị bi ký. Hà Tĩnh là tỉnh có nhiều di tích lịch sử - văn hóa. Hiện nay đã thông kê được 1800 di tích các loại trong đó có gần 535 di tích xếp hạng cấp tỉnh, gần 86 di tích quốc gia và 2 di tích quốc gia đặc biệt. Việc xây dựng, trùng tu tôn tạo di tích, công trình đã có truyền thống từ lâu đời. Nhờ đó mà này nay còn sót lại nhiều di sản văn hóa có giá trị ở tỉnh Hà Tĩnh, được ghi lại trong các sách địa chí, gia phả và văn bia. Các tư liệu đó thường ghi lại thời gian, quá trình người đứng ra thực hiện và công đức. Bia Miếu Tam Tòa thờ Lý Nhật Quang, Hoàng tử thứ 8 của vua Lý Thái Tổ, được giao vào trấn thủ Nghệ An (gồm Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay) và có công lớn xây dựng nên vùng đất này. Bia ghi lại việc Khuôn Lộc hầu Đặng Đình An là trưởng quan viên bản huyện đứng ra cùng các quan viên văn võ trong huyện cùng họp bàn, dâng lên xin sắc chỉ cùng nhau tính toán cho ngày tu bổ, tôn tạo miếu Tam Tòa (hay còn gọi là đền Huyện ở xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân). Bia trùng tu chùa Gia Hưng ghi lại việc Trần Tịnh quê xã Nguyệt Áo, huyện La Sơn đứng ra tu tạo sau khi di tích đã thành phế tích với quy mô “tráng lệ, điêu khắc tinh xảo, xa trông tòa sen như cung ngọc cao ngất sánh ngang Tây Trúc, lâu dài sáng rõ trong vườn hoa, cảnh trí trường xuân, gió sen rực rỡ đời đời truyền đạo”. Bản huyện văn hội bi ký cũng đề cập đến việc Thị nội giám ty lễ Tổng thái giám Tham đốc Tình quận công Bùi Phan Hữu từng dựng nhà thờ, cúng ruộng, sắm đồ tế khí, xây dựng miếu thờ Nho học, dựng bia ca ngợi công đức. Miếu thờ trở thành một danh thắng, miếu đường nguy nga, khơi mạch nguồn cho nhiều anh tài, lương đống. Suy tôn phúc thần văn ký ghi lại việc suy tôn phúc thần là Nguyễn Văn Chất, người có công lớn với dân, với nước và việc góp công, góp của của quan viên và nhân dân xây dựng từ chỉ năm tháng phụng thờ theo nghi thức. Tạo thánh vũ bi ghi lại việc Văn hội huyện La Sơn, phủ Đức Quang đóng góp tu tạo nhà thánh vũ. Tiên Kiều bi kí do Tế tửu Nguyễn Nghiễm, người xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân biên soạn ghi lại việc Văn hội đứng ra xây dựng, quá trình quyên góp vật liệu, gọi thợ đến xây dựng. Quan thị bi ký do Thám hoa Nguyễn Huy Oánh, quê làng Trường Lưu, huyện La Sơn soạn khi đang ở nhiệm sở. Bia được lập ghi lại sự kiện các quan chức đứng ra mở chợ do địa phương.
Bia đá cổ có nội dung về hậu thần có: Tôn hậu thần lập thường tự bi ký, Hậu thần bi ký, Phan gia hậu thần bi ký. Người được tôn hậu thần là những người có đức, có tài làm nhiều việc thiện lương, thu phục nhân tâm được các quan viên và nhân dân tôn bầu làm hậu thần ngày tháng hương khói. Ba bia đá trên đã ghi rất rõ tục thờ hậu thần ở Hà Tĩnh thời Lê Trung Hưng.
Tóm lại, bia đá thời Lê Trung Hưng ở tỉnh Hà Tĩnh là những hiện vật gốc có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học và thẩm mỹ với số lượng tương đối lớn, nội dung phản ánh khá phong phú các mặt đời sống xã hội tại các làng, xã xưa, ghi lại những phong tục tập quán, sự việc, truyền thống tốt đẹp của vùng đất Hà Tĩnh như truyền thống học hành khoa bảng, nếp gia phong của dòng họ, coi trọng những người đức tài, có công tích với dân, với nước. Các bia đá cổ này cần được bảo vệ, bảo quản tốt và phát huy giá trị, là nguồn tư liệu quý để nghiên cứu, phổ biến, giáo dục các thế hệ, là cơ sở để tạo nên các giá trị văn hóa mới phục vụ lợi ích hiện tại và tương lai./.
Chú thích:
[1] Dân ca ví, giăm Nghệ Tĩnh được ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể đại điện cho nhân loại tại kỳ họp thứ 9 của Ủy ban Liên Chính phủ Công ước UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, ngày 27/11/2014 tại Paris (Pháp).
[2] Lễ hội đền Chiêu Trưng năm 2017 và Lễ hội Cầu Ngư năm 2021 được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
[3] Mộc bản Trường học Phúc Giang năm 2016 và Hoàng hoa sứ trình đồ năm 2018 được công nhận là Di sản tư liệu thuộc Chương trình ký ức thế giới Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương của UNESCO.
[4] Môn Hạ sảnh ấn, tam vị thần công “Bảo Quốc An Dân Đại Tướng Quân”, bia Sùng Chỉ đều được Chính phủ công nhận là bảo vật quốc gia.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bảo tàng Hà Tĩnh (2017), Văn bia Hà Tĩnh, Nxb Khoa học xã hội. Đặng Duy Báu (Chủ biên), Lịch sử Hà Tĩnh, Tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia. Cục Bảo tồn - Bảo tàng (1999), Niên biểu Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. Thái Kim Đỉnh (Chủ biên - 2004), Các nhà khoa bảng Hà Tĩnh, Hội LHVHNT Hà Tĩnh. Ngô Đức Thọ (Chủ biên) (2002), Văn miếu - Quốc Tử Giám và 82 bia tiến sĩ, Nxb Hà Nội. Bùi Thiết (Chủ biên - 2000), Từ điển Hà Tĩnh, Sở VH&TT Hà Tĩnh.