Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Bảo tàng Hà Tĩnh hiện đang lưu giữ một bản chế phong có số hiệu hiện vật là BTHT764/V2, bằng vải quý, hình chữ nhật, kích thước 1,3m x 0,6m, màu vàng, trang trí 10 con rồng đuôi xoắn đặc trưng thời Nguyễn trong tư thế uốn lượn bay trong mây, chạy vòng quanh tạo thanh đường viền. Bốn góc tạo 4 bông hoa nổi, ở giữa hiện vật trang trí hoa lá và cuốn thư ẩn mờ làm nền. Phần bên phải và ở giữa hiện vật ghi 285 chữ Hán màu đen, viết ở thể chân thư được sắp xếp thành 24 hàng từ phải sang trái, từ trên xuống dưới. Ở dòng chữ Hán hàng cuối cùng thể hiện niên đại của chế phong (1886) và đóng dấu triện 勅命之寳 “Sắc Mệnh chi bảo” màu đỏ của nhà vua. Nội dung của bản chế phong như sau:
Nguyên văn chữ Hán
奉 天 承 運 皇 帝 制 曰 眹 聞 丈 夫 許 國 之 心 行 藏 一 致 國 朝 待 臣 之禮 終 始 两 全 貺 出 由 中 恩 隆 格 外 咨 爾 原 東 閣 大 學 士 充 統 督 軍 務 大 臣 廸 忠 子 經 凖 降 潙 工 部 尚 書 仍 子 爵 囬 休 休 黄 佐 炎 廟 堂 重 望 樑 棟 奇 材 郭 都 霨 之 風 流 金 章 銀 榜 羊 相 公 之 儒 雅 緩 帯 陘 裘 蒙 知 遇 者 卅 餘 年 世 臣 喬 木 假 節 鉞 於 十 三 省 閫 外 將 軍 乃 柞 宮 之 命 未 酬 而 湖 上 之 驢 已 骻 篋 中 勁 翮 徒 致 溉 於 秋 風 爨 下 殘 桐 忍 遺 音 於 焦 尾 肆 今 往 求 攸 濟 弼 予 一 人 江 左 蒼 生 謝 太 傅望 其 復 出 衡 陽 舊 隐 李 山 人 未 可 投間 方 切 於 亨 屯 人 正 殷 於 求 舊 著 凖 開 復 東 閣 大 學 士 原 衔 仍 子 爵 充欽 命 右 直 畿 安 撫 經 理 大 使 錫 之 誥 命 尚 其 榮 承 晋 錫 恪 迪 坤 貞 許 以 馳 驅 忘 其 老 邁 苟 東 土 之 龍 蛇 靖 濟 予 于 艱 則 五 湖 之 烟 景 谁 爭 從 卿 所 好 欽 哉.
同 慶 元 年 捌 月 貳 拾 玖 日.
Phiên âm
Thừa thiên hưng vận, Hoàng đế Chế viết, Trẫm văn:
Trượng phu hứa quốc chi tâm, hành tàng nhất trí;
Quốc triều đãi thần chi lễ, chung thủy lưỡng toàn.
Huống xuất do trung;
Ân long cách ngoại.
Tư nhĩ, nguyên Đông các đại học sĩ, sung Thống đốc quân vụ đại thần Địch Trung tử, kinh chuẩn giáng vi Công bộ Thượng thư, nhưng tử tước hồi hưu Hoàng Tá Viêm.
Miếu đường trọng vọng;
Lương đống kỳ tài.
Quách Đô úy chi phong lưu, kim chương ngân bảng;
Dương tướng công chi nho nhã, hoãn đới kinh cừu.
Mông tri ngộ giả tạp dư niên, thế thần kiều mộc;
Giả tiết việt ư thập tam tỉnh, khổn ngoại Tướng quân.
Nãi tạc cung chi mệnh vị thù;
Nhi hồ thượng chi lư dĩ khóa.
Khiếp trung kính cách, đồ trí khái ư thu phong;
Thoán hạ tàn đồng, nhẫn di âm ư tiêu vỹ.
Tứ kim vãng cầu du tế bật dư nhất nhân.
Giang Tả thương sinh, Tạ Thái phó vọng kỳ phục xuất;
Hành Dương cựu ẩn, Lý sơn nhân vị khả đầu gian.
Thời phương thiết ư hanh truân;
Nhân chính ân ư cầu cựu.
Trứ chuẩn khai phục Đông các đại học sĩ nguyên hàm, nhưng tử tước, sung Khâm mệnh Hữu trực kỳ An phủ kinh lý đại sứ, tích chi Cáo mệnh.
Thượng kỳ:
Vinh thừa Tấn tích;
Khác địch Khôn trinh.
Hứa dĩ trì khu;
Vong kỳ lão mại.
Cẩu Đông thổ chi long xà ký tĩnh, tế dư vu gian;
Tắc Ngũ hồ chi yên cảnh thùy tranh, tòng khanh sở hiếu.
Khâm tai!
Đồng Khánh nguyên niên, bát nguyệt, nhị thập cửu nhật.
Dịch nghĩa
Tuân thừa mệnh trời chấn hưng vận nước, Hoàng đế ban Chế rằng, Trẫm nghe:
Trượng phu dốc tâm vì nhà nước, nhất trí lúc hành – tàng;
Triều đình lấy lễ đãi bề tôi, vẹn toàn điều sau – trước.
Công lao thể hiện đủ đầy;
Ân điển sâu dày lan tỏa.
Này ngươi Hoàng Tá Viêm, nguyên là Đông các đại học sĩ, sung chức Thống đốc quân vụ đại thần, tước Địch Trung tử, đã chịu giáng xuống chức Công bộ Thượng thư, vẫn giữ nguyên tước tử, cho về nghỉ hưu.
Bậc trọng vọng chốn miếu đường;
Đấng kỳ tài làm rường cột.
Phong lưu như Quách Đô úy, lãnh bảng bạc chương vàng;
Nho nhã tựa Dương tướng công, khoác áo cừu đai gấm.
Chịu ơn tri ngộ hơn ba chục năm, đáng bậc công thần bao thế hệ;
Trao quyền tiết việt quản mười ba tỉnh, là vị tướng giỏi ở cõi ngoài.
Công lao phụng mệnh chưa kịp báo đền;
Vó ngựa hồi hương đã nghe cất bước.
Cọng lông cứng cất trong tráp kín, những than thở với gió thu;
Cành ngô đồng chất dưới bếp lò, nén âm vang vào ngọn lửa.
Bèn nay tìm khắp người giúp đỡ Trẫm, duy chỉ có mình ngươi (là phù hợp).
Miền Giang Tả con dân, Tạ Thái phó đang được mong trở lại;
Chốn Hành Dương ẩn dật, Lý sơn nhân chưa thể bỏ quay về.
Thời thế đương lúc cấp thiết cho sự hanh truân;
Nhân sự chính nên lựa chọn được người lão luyện.
Vậy chuẩn khai phục nguyên hàm là Đông các đại học sĩ, vẫn giữ tước tử, sung chức Khâm mệnh Hữu trực kỳ An phủ kinh lý đại sứ, ban cho đạo Cáo mệnh này.
Những mong:
Vinh quang thừa hành ân điển;
Thành kính biểu lộ trung trinh.
Chẳng ngại ruổi rong;
Tạm quên già yếu.
Cõi Đông thổ rắn rồng nếu đã lặng, ấy là giúp Trẫm vượt nỗi gian nan này;
Thú Ngũ hồ sương khói chẳng ai tranh, sẽ được thỏa lòng mong muốn của khanh vậy.
Hãy kính thay!
Ngày 29 tháng 8 năm Đồng Khánh đầu tiên (1886).
Chế phong của Hoàng Tá Viêm
Như vậy, đây là bản chế phong nói về vị quan đại thần triều Nguyễn Hoàng Tá Viêm (1820-1909). Cha ông là Hoàng Tá Xán, từng là Thượng thư bộ Hình dưới triều vua Minh Mệnh. Ông người làng Văn La, tổng Văn Đại, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Ông làm quan trải qua các chức Lang trung bộ Lại, Án sát tỉnh Ninh Bình, Bố chính Thanh Hóa, Bố chính kiêm Tuần phủ Hưng Yên, Tổng đốc An Tĩnh, Lạng - Bình - Ninh - Thái Thống đốc quân vụ đại thần, Đại học sĩ lãnh Tổng thống Tam Tuyên, sung Tiết chế quân vụ miền Bắc, Thái tử Thiểu bảo, Cơ mật viên đại thần.
Hoàng Tá Viêm là người có đóng góp công lao to lớn đối với đất nước và nhân dân. Khi làm Tổng đốc An Tĩnh, ông có công xoa dịu mâu thuẫn lương giáo; mở mang nông nghiệp, phát triển giao thông; vận động nhân dân đào kênh Thiết Cảng phát triển thương mại. Ông có công dẹp dư đảng Thái Bình Thiên Quốc tràn từ Trung Quốc sang Việt Nam gây loạn; kháng chiến chống thực dân Pháp khi tiến đánh Hà Nội.
Bản chế phong này thể hiện việc vua Đồng Khánh, triều đình nhà Nguyễn mời ông ra làm Đông các đại học sĩ, phục giữ tước tử, sung chức Khâm mệnh Hữu trực kỳ An phủ kinh lý đại sứ năm 1886, khi ông đã về trí sĩ.