Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Sau khi cắt 6 tỉnh Nam Kỳ cho Pháp với việc ký vào Hòa ước Giáp Tuất ngày 15 tháng 3 năm 1874 cộng với mâu thuẫn với chế độ phong kiến nhà Nguyễn và thực dân Pháp xâm lược trước đó, nhân dân nhiều nơi trong nước, đặc biệt là nhân dân 2 miền Trung – Bắc Kỳ đã phản kháng mạnh mẽ, đứng lên dấy nghĩa chống lại triều đình Huế thỏa hiệp, đầu hàng và thực dân Pháp xâm lược. Ở Hà Tĩnh, phối hợp với Trần Tấn, Đăng Như Mai ở Nghệ An, Trương Quang Thủ ở Quảng Bình, Trần Quang Cán ở Hương Sơn, Nguyễn Huy Điển ở Thạch Hà … đã tập hợp nhân dân nổi dậy, lấy hiệu Cờ Vàng. Vì vậy, cuộc khởi nghĩa còn được gọi là cuộc khởi nghĩa Cờ Vàng. Mới ban đầu, nghĩa quân tiến đánh huyện lị Hương Sơn, phủ lỵ Đức Thọ và kéo xuống đánh hạ thành Hà Tĩnh, giết chết Quản đạo Mạnh Tuyển, Khâm phái Đinh Văn Khoa, Lãnh binh Lê Văn Thất; bắt Phó Quản đạo Tô Huân. Cuộc khởi nghĩa lan rộng nhanh chóng khắp vùng Nghệ Tĩnh. Một tướng của Nguyễn Huy Điển là Cù Biểu, tức Bửu Lân được giao nhiệm vụ đánh vào thành huyện Kỳ Anh. Nguyễn Tiến Đắc vào trấn giữ đèo Ngang [1].
Nguyễn Tiến Đắc còn được gọi là Nguyễn Tiến Đước. Quê làng Hữu Lạc, tổng Cấp Dẫn, nay là thôn Hợp Tiến, xã Kỳ Bắc, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh năm Mậu Tý, niên hiệu Minh Mệnh thứ 9 (1828) trong gia đình phú hào khá giả; được nhà Nguyễn phong hàm Cửu phẩm Bá hộ. Nhân dân thường gọi là Bá hộ Đắc hay Bá hộ Đước. Cha ông là Nguyễn Tiến Huy, cũng có hàm Cửu phẩm Bá hộ của làng Hữu Lạc với nhiều trâu bò và ruộng vườn. Ông nội là Nguyễn Tiến Thiệu, người có công huấn luyện voi chiến ở trại Tuần Tượng. Mùa xuân năm Kỷ Hợi (1789), khi vua Quang Trung hành quân ra Bắc dẹp giặc Mãn Thanh, đội voi chiến do Nguyễn Tiến Thiệu huấn luyện cũng được bổ sung vào đoàn voi trận Quang Trung, góp công vào trận Ngọc Hồi, Đống Đa, đánh tan 29 vạn quân Thanh, giải phóng đất nước khỏi họa ngoại xâm [2].
Nguyễn Tiến Đắc là người biết cả văn lẫn võ. Ông lấy vợ là bà Hà Thị Hạnh, con gái Tú tài Hà Huy Bích, quê làng Kim Nặc, tổng Thổ Ngọa, nay là xã Cẩm Hưng, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Tuy giàu có nhưng ông có lòng thương người, sống bình dị, hòa đồng với anh em, làng xóm. Nhiều người trong làng gặp khó khăn được ông giúp đỡ. Ông ghét những kẻ xu nịnh, xảo trá, nhất là bọn hào lý, quan lại hay bóc lột hà hiếp dân lành.
Bàn thờ gian giữa thờ Nguyễn Tiến Đắc tại di tích ở xã Kỳ Bắc, huyện Kỳ Anh
Gia phả họ Nguyễn Tiến làng Hữu Lạc, bản chữ Hán có ghi: 叔父阮進得生戊子年。文章漢,九品伯户。娶妻何氏幸,金昵居,女子秀才何楎碧。薊室陳氏了生男六人阮進安,阮進相,阮進讓,阮進記,阮進噱,阮進俱。生二女氏瓜氏蹇。首領文伸,限語岹昂甲戌年。翁卒十九日六月甲戌年。墓吉塟杆梧処。
Phiên âm: Thúc phụ Nguyễn Tiến Đắc, sinh Mậu Tý niên. Văn chương Hán, Cửu phẩm Bá hộ. Thú thê Hà Thị Hạnh, Kim Nặc cư, nữ tử Tú tài Hà Huy Bích. Kế thất Trần Thị Liễu, sinh nam lục nhân: Nguyễn Tiến Yên, Nguyễn Tiến Tương, Nguyễn Tiến Nhượng, Nguyễn Tiến Kiêm, Nguyễn Tiến Cược, Nguyễn Tiến Câu. Sinh nhị nữ: Thị Qua, Thị Kiển. Thủ lĩnh văn thân, hạn ngự đèo Ngang, Giáp Tuất niên. Ông tốt thập cửu nhật, lục nguyệt, Giáp Tuất niên. Mộ cát táng Cơn Ngô xứ.
Dịch nghĩa: Chú ruột Nguyễn Tiến Đắc, sinh năm Mậu Tý (1828). Văn chương Hán học. Được phong hàm Cửu phẩm Bá hộ. Lấy vợ là bà Nguyễn Thị Hạnh, quê làng Kim Nặc, tổng Thổ Ngọa, huyện Cẩm Xuyên, con gái của Tú tài Hà Huy Bích. Vợ kế là bà Trần Thị Liễu sinh 6 trai: Nguyễn Tiến Yên, Nguyễn Tiến Tương, Nguyễn Tiến Nhượng, Nguyễn Tiến Kiêm, Nguyễn Tiến Cược và Nguyễn Tiến Câu. Sinh 2 gái: Nguyễn Thị Qua và Nguyễn Thị Kiển. Ông là thủ lĩnh văn thân, canh giữ đèo Ngang năm Giáp Tuất (1874). Ông qua đời vào ngày 19 tháng 6 năm Giáp Tuất (1874), lúc mới 46 tuổi. Mộ táng tại xứ Cơn Ngô.
Với gia thế của mình, Nguyễn Tiến Đắc có điều kiện quảng giao và tầm nhìn thế cuộc. Cũng như nhiều sĩ phu và nhân dân trên cả nước, việc thực dân Pháp đánh chiếm thành Hà Nội và một số tỉnh phía Bắc năm 1873 và việc triều đình Huế ký Hòa ước năm Giáp Tuất (1874) có nhiều nội dung bất lợi cho nước ta trong đó có cắt 6 tỉnh Nam Kỳ cho thực dân Pháp đã khơi dậy lòng yêu nước, căm thù quân xâm lược và bè lũ tay sai trong ông. Nguyễn Tiến Đắc nhận thức rõ nỗi nhục mất nước, thân phận người dân nô lệ. Ông bí mật xuất tiền của xây dựng lực lượng, chuẩn bị hậu cần, mở lò rèn vũ khí… ngày đêm luyện tập chờ ngày khởi nghĩa. Ông chủ động tuyên truyền vận động nhân dân tham gia nghĩa quân đánh giặc. Mặt khác, ông thường xuyên nắm tình hình, liên lạc với các nhà nho cùng tư tưởng yêu nước, chống Pháp ở Kỳ Anh, Cẩm Xuyên, Thạch Hà để xây dựng, mở rộng địa bàn hoạt động. Chỉ trong thời gia ngắn, ông đã quy tụ được 300 nghĩa sĩ, chờ thời cơ nổi dậy [3].
Thời cơ đã đến, Cù Biểu, một tướng của nghĩa quân cùng với Nguyễn Tiến Đắc hưởng ứng cùng nghĩa quân chiếm huyện thành Kỳ Anh và được nhân dân đi theo. Thế và lực của nghĩa quân ngày một mạnh. Tại đây, Cù Biểu giữ huyện thành Kỳ Anh, còn Nguyễn Tiến Đắc tiến vào án ngự ở đèo Ngang nhằm chống lại quân Nam triều và thực dân Pháp từ Huế ra. Ở phía Kẻ Ve (Quảng Bình), Trương Quang Thủ lãnh đạo nghĩa sĩ cùng phối hợp khi cần thiết. Tại đèo Ngang, Nguyễn Tiến Đắc chốt chặn đường đỉnh đèo và đèo Con, vùng Voi, vùng Thượng. Tất cả tạo thành thế trận khép kín, vững chắc.
Trước tình hình đó, phụng mệnh vua Tự Đức, Lễ bộ Thượng thư Lê Bá Thận sung Khâm sai Đại thần; Chưởng vệ Nguyễn Đình Khoa sung Khâm phái đem 500 quân đánh ra Hà Tĩnh. Sai Phạm Tiến Lâm đưa 1000 quân ra Quảng Bình chốt giữ tuyến sông Gianh, đánh giặc Man và phối hợp đánh ở Hoành Sơn. Đồng thời, các đạo quân Tôn Thất Thuyết, Võ Trọng Bình tiến quân đánh đánh nghĩa quân Trần Tấn – Đặng Như Mai, Trần Quang Cán – Nguyễn Huy Điển, Trương Quang Thủ. Khâm sai Nguyễn Văn Tường với sự hỗ trợ của tàu Pháp đổ bộ lên bờ cùng Lê Bá Thận đánh đèo Ngang, lúc này Nguyễn Tiến Đắc đang trấn giữ [4]. Trong thế bị bao vây, Cù Biểu và Nguyễn Tiến Đắc chỉ huy nghĩa quân anh dũng chống trả quyết liệt, mở các cuộc phản công và đã thắng một số trận ở Thần Đầu, đèo Con. Ở đèo Ngang, nghĩa quân dàn trận phòng thủ cầm cự khiến cho quân của Lê Bá Thận không tiến lên được. Tuy nhiên, do tương quan lực lượng nghiêng hẵn về phía địch, trong thế bao vây, nghĩa quân gặp nhiều bất lợi. Quân triều đình ra sức phản công. Mặt khác, quân triều đình còn tìm cách ly tán, phá vỡ mối liên kết quân dân, đốt phá nhà cửa, triệt hạ làng mạc ở Thần Đầu. Trong tình hình đó, Nguyễn Tiến Đắc đưa quân chạy về đến Kỳ Anh thì Cù Biểu đã bỏ huyện thành chạy. Do lực lượng mỏng, vũ khí thô sơ, nghĩa quân bị quân Nam triều đánh bại. Cù Biểu và Nguyễn Tiếc Đắc bị bắt ở chợ Quan, làng Thanh Sơn (nay thuộc xã Kỳ Văn, huyện Kỳ Anh), rồi đưa về huyện lỵ Kỳ Anh hành hình vào ngày 19 tháng 6 năm Giáp Tuất tức năm Tự Đức thứ 26 (1874) và an táng tại gò Hỏa Hiệu thuộc xã Quyền Hành, tổng Hoằng Lễ (nay là phường Kỳ Trinh, thị xã Kỳ Anh). Sau đó, mộ được đưa về xứ Cơn Ngô. Triều đình tiếp tục bắt bớ, chém giết những người tham gia cuộc khởi nghĩa. Ở quê hương Nguyễn Tiến Đắc, bọn phong kiến tay sai tiến hành đốt phá nhà cửa, giết hại những gia đình có người theo nghĩa quân. Người thân, con cháu Nguyễn Tiến Đắc cũng bị quân triều đình bắt bớ và hành hạ. Con cháu cũng bị liên lụy ba đời không được thi cử (tam đại tử tôn bất đắc ứng thí) [5]. Nhưng nhờ có quan hệ nên án phạt này sau đó được hủy bỏ. Vì vậy, người con trai Nguyễn Tiến Kiêm của Nguyễn Tiến Đắc được ứng thí và đỗ Cử nhân khoa Kỷ Dậu, năm Duy Tân thứ 3 (1909) và đỗ Phó bảng khoa Canh Tuất, năm Duy Tân thứ 4 (1910).
Dù phải hy sinh nhưng Nguyễn Tiến Đắc đã nêu cao tấm gương sáng về lòng yêu nước, sẵn sàng bảo vệ độc lập tự do mỗi khi tổ quốc lâm nguy. Về cuộc khởi nghĩa Cờ Vàng năm Giáp Tuất (1874) ở Kỳ Anh, Lịch sử Đảng bộ huyện Kỳ Anh có ghi: “Năm 1874 ở Kỳ Anh nổi lên phong trào chống Pháp của Cù Biểu. Tham gia phong trào này có các nhà phú hào Nguyễn Tiến Đắc ở Hữu Lạc, nhà nho Lê Nhất Hoàn ở Mị Lụ (Kỳ Văn), Trần Công Thưởng ở Đạn Du (Kỳ Thư). Quân khởi nghĩa đã đánh chiếm thành huyện và giữ được 3 tháng…” [6]
Cuộc khởi nghĩa Cờ Vàng năm Giáp Tuất (1874) bị dập tắt trong vòng 6 tháng. Các thủ lĩnh của nghĩa quân bị sát hại do lực lượng còn mỏng lại có những sai lầm về chính trị như khẩu hiệu sát tả nhưng đó là cuộc khởi nghĩa đầu tiên của sĩ phu và nhân dân 3 tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình chống lại tư tưởng đầu hàng của triều đình Huế, gây một tiếng vang lớn trên cả nước. Đánh giá về cuộc khởi nghĩa Cờ Vàng năm Giáp Tuất (1874) ở Hà Tĩnh, Lịch sử Đảng bộ Hà Tĩnh, tập 1 (1930 – 1954) đã viết: “Mặc dù thất bại, cuộc khởi nghĩa Giáp Tuất (1874) ở Hà Tĩnh... đã thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn, truyền thống chống giặc ngoại xâm của nhân dân Hà Tĩnh. Hòa nhịp với phong trào chung của cả nước, phong trào Hà Tĩnh đã phát triển mạnh, viết lên những trang sử hào hùng. Đây là ngọn lửa đầu tiên thổi lên rồi mười năm sau sẽ bùng cháy mạnh mẽ và quyết liệt trong phong trào Cần Vương cuối thế kỷ XIX” [7]./.
Chú thích:
[1] Theo Sách địa chí huyện Kỳ Anh, Thái Kim Đỉnh chủ biên, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, năm 2011, tr. 147.
[2] Theo sách Nguyễn Tiến Đắc với cuộc khởi nghĩa Giáp Tuất – 1874, Nguyễn Tiến Chưởng biên soạn, Nxb Nghệ An, năm 2018, tr. 13 và gia phả họ Nguyễn Tiến, bản chữ Hán lưu tại di tích.
[3] Sđd, tr. 14.
[4] Sđd, tr. 16.
[5] Theo gia phổ họ Nguyễn Tiến bản chữ Quốc Ngữ lưu tại di tích.
[6] Lịch sử Đảng bộ huyện Kỳ Anh, tập 1 (1930 – 1945), Ban Thường vụ Huyện ủy Kỳ Anh xuất bản năm 1974, tr.36.
[7] Lịch sử Đảng bộ Hà Tĩnh, tập 1 (1930 -1954), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 12.