Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Thế giới đang chứng kiến sự phát triển nhanh chóng của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Cuộc cách mạng này dựa trên cơ sở dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo (AI), Internet kết nối vạn vật. Nó dần len lõi vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, làm thay đổi căn bản diện mạo của chúng ta từng ngày. Hiện Chính phủ Việt Nam đang hành động mạnh mẻ thúc đẩy mọi ngành nghề, lĩnh vực trong xã hội chớp lấy thời cơ, đi tắt đón đầu tận dụng cuộc cách mạng này để nâng cao thứ hạng, làm thay đổi, phát triển đất nước. Về lĩnh vực bảo tồn bảo tàng, trong những năm qua, việc áp dụng công nghệ thông tin (CNTT) đã giải quyết nhiều vấn đề về giải pháp tiến hành các khâu công tác hoạt động bảo tàng, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa. Việc ứng dụng CNTT đã làm thay đổi cách thức làm việc, nâng cao hiệu quả công việc, năng suất lao động, nâng cao tính khoa học, hiện đại, vừa nhanh, vừa chính xác trong hoạt động bảo tồn, bảo tàng.
Nhận thức sâu sắc về vai trò của CNTT đối với lĩnh vực mình hoạt động được cấp trên giao, trong nhiều năm qua, Bảo tàng tỉnh đã áp dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động nghiệp vụ bảo tồn, bảo tàng làm thay đổi mạnh mẽ cách thức làm việc truyền thống của Bảo tàng đặc biệt là hoạt động truyền thông, tuyên truyền, quảng bá, kiểm kê, quản lý thông tin hiện vật, hoạt động nghiên cứu Hán Nôm, khảo cổ học, lập hồ sơ di tích, hồ sơ hiện vật, nghiên cứu khoa học, tổ chức bản thảo, xuất bản ấn phẩm, lưu trữ thông tin, khai thác tư liệu số, truyền dữ liệu, số hóa ảnh tư liệu, tư liệu lịch sử, văn hóa, góp phần cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính…
Việc đi tắt đón đầu ứng dụng những thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, trong đó có CNTT mang lại là mấu chốt giải quyết các hạn chế, bất cập trong hoạt động bảo tồn bảo tàng, góp phần phát huy tối đa sự phong phú và đa dạng di sản văn hóa của Hà Tĩnh, biến nó vừa trở thành mục tiệu vừa là động lực để phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao dân trí, làm giàu có thêm đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, xây dựng bản sắc, tiến lên hội nhập văn hóa khu vực và quốc tế.
Việc ứng dụng CNTT trước mắt chủ yếu được áp dụng vào hoạt động nghiệp vụ bảo tồn, bảo tàng, trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Đó là các khâu công tác truyền thông, quản bá, trưng bày, kiểm kê, khai thác thông tin, quản lý thông tin tài liệu, hiện vật trong kho bảo quản, nghiên cứu tư liệu Hán – Nôm, lưu trữ ảnh tư liệu số, tư liệu số hóa, truyền dữ liệu, lập hồ sơ hiện vật, hồ sơ di tích, hộ chiếu hiện vật của Bảo tàng tỉnh.
Viên chức phòng Kiểm kê, Bảo quản - Trưng bày đang sử dụng
Phần mềm quản lý thông tin hiện vật ở Bảo tàng tỉnh
Lĩnh vực được áp dụng CNTT là các khâu công tác của hoạt động bảo tàng và công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Hiệu quả của việc ứng dụng đó góp phần vào việc tăng năng suất hiệu quả công việc, góp phần xây dựng tác phong cách làm việc khoa học, hiện đại, cập nhật nhanh các thông tin mới nhất nhằm bổ sung vào hoạt động có liên quan, xây dựng môi trường làm việc thân thiện hiệu quả.
Mục đích của ứng dụng CNTT là tăng năng suất hiệu quả lao động. Xây dựng môi trường làm việc khoa học, hiện đại và thân thiện. Nếu trước đây, khi chưa ứng dụng CNTT vào công việc thì các hoạt động chuyên môn như kiểm kê, bảo quản lưu trữ thông tin cồng kềnh, chậm, độ chính xác không cao. Lưu trữ bằng CNTT sẽ tránh được hư hỏng; gọn gàng, khoa học, dễ khai thác, dễ thống kê, bảo quản lâu dài nội dung tài liệu hiện vật. Công tác truyền thông sẽ nhanh nhạy, phổ biến rộng rãi, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả. Công tác nghiên cứu được hỗ trợ bởi CNTT sẽ thông minh (smart), nhanh nhạy, khoa học, chính xác hơn, tiện dụng hơn.
Ứng dụng CNTT vào các hoạt bảo tồn, bảo tàng ở Bảo tàng tỉnh đã được thực hiện từ nhiều năm nay và đã mang lại kết quả khá rõ nét. Sau đây xin thuyết minh một số giải pháp cải tiến được áp dụng từ một số năm trở lại đây ở các thiết chế di sản văn hóa của tỉnh ta, đặc biệt là ở Bảo tàng tỉnh.
Giải pháp sử dụng phần mềm quản lý thông tin hiện vật do Cục Di sản văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) phát triển được áp dụng rộng rãi trên toàn quốc ở hầu hết các bảo tàng, ban quản lý di tích trong đó có Bảo tàng tỉnh. Phần mềm này là giải pháp quản lý thông tin về hiện vật qua việc nhập các thông tin từ sổ cái, thông tin từ sổ phân loại hiện vật trong kho bảo quản, gồm các thông tin như tên hiện vật, chất liệu, số lượng, niên đại, tóm tắt mội dụng hiện vật, số hiệu hiện vật, ảnh về hiện vật... Phần mềm này giúp cán bộ kiểm kê – bảo quản quản lý, khai thác theo trường dễ dàng các tài liệu, hiện vật có trong kho bảo quản. Bảo tàng tỉnh hiện là nơi lưu giữ gần 1 vạn tài liệu hiện vật được chia thành nhiều bộ sưu tập có giá trị như bộ sưu tập bảo vật quốc gia 3 khẩu súng thần công, sưu tập đồ gốm di tích Phôi Phối – Bãi Cọi, sưu tập hiện vật về tích tích khảo cổ học Thạch Lạc, di tích khảo cổ học Rú Điệp, sưu tập cổ vật thời Lý, Trần, Lê, Nguyễn, sưu tập đồ đồng văn hóa Đông Sơn, sưu tập kỷ vật chiến tranh kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, hiện vật lịch sử, sưu tập hiện vật ngành nghề như nghề mộc Thái Yên, nghề rèn Trung Lương, nghề làm muối Hộ Độ, nghề đánh bắt thủy sản, nghề làm nón Kỳ Thư, nghề đan Đan Chế, nghề làm gốm Cổ Đạm, nghề làm gốm Cẩm Trang, nghề kéo mật, nghề làm kẹo cu đơ, sưu tập hiện vật là đồ dùng sinh hoạt, nông cụ…Với số lượng hiện vật lớn, phong phú và phức tạp như vậy mà không ứng dụng CNTT vào quản lý và khai thác thì các cán bộ kiểm kê – bảo quản sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong công việc. Việc ứng dụng phần mềm này là một bước tiến lớn trong khâu công tác kiểm kê, bảo quản của Bảo tàng tỉnh và trong tương lai mạng lưới quản lý thông tin hiện vật này sẽ được kết nối với nhau giữa các bảo tàng và di tích thành một mạng lưới trên phạm vi toàn quốc, sẽ góp phần mang đến cho các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu dễ dàng khai thác thông tin gốc từ các hiện vật gốc nhằm phố biến kiến thức, phục vụ quản lý, hoạch định chính sách về di sản văn hóa mang tầm vĩ mô quốc gia.
Ứng dụng phần mềm nghiên cứu Hán Nôm vào việc học tập, nghiên cứu, phiên âm, dịch nghĩa, khai thác thông tin, sắp xếp các tài liệu Hán Nôm chứa đựng nội dung tư tưởng người xưa để lại nhằm phát huy, phố biến kiến thức khoa học cho công chúng đến với bảo tàng, di tích. Hiện Bảo tàng tỉnh lưu trữ một lượng tài liệu Hán Nôm lớn nhất ở tỉnh Hà Tĩnh, trong đó có hàng vạn trang tư liệu Hán Nôm được số hóa từ nhiều năm nay, bao gồm các gia phả, sắc phong, bài cúng, mộc bản, khế cước ruộng đất, địa bạ, sách chữ hán về kinh điển Nho giáo, sách thuốc, lịch sử…Việc ứng dụng CNTT vào nghiên cứu Hán Nôm sẽ góp phần khai thác nhanh, hiệu quả kho tư liệu Hán Nôm quan trọng này.
Việc ứng dụng CNTT dựa trên các phần mềm Autocad, Corel Draw vào việc lên maket trưng bày, lập hồ sơ di tích nhằm chuẩn hóa, khoa học hoạt động nghiên cứu di tích, vẽ đạc họa di tích, định vị tọa độ GPS, xác định phương hướng các di tích chính xác, góp phần bảo bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Nếu trước đây vẽ đạc họa di tích bằng tay thì chậm, độ chính xác không cao thì nay áp dụng CNTT vào vẽ kỹ thuật đạc họa di tích sẽ khắc phục được vấn đề này.
Trong nghiên cứu khảo cổ học việc ứng dụng CNTT cũng mang lại những kết quả khả quan trọng việc xác định tọa độ, đo đạc khoảng cách, chỉnh lý hiện vật khảo cổ, trình chiếu báo cáo kết quả khai quật… Tất cả bây giờ đều dựa vào CNTT để giải quyết vấn đề.
Trong thời gian vừa qua, Bảo tàng tỉnh phối hợp với các cơ quan chuyên môn ứng dụng CNTT số hóa hóa hàng chục nghìn trang tài liệu Hán Nôm như gia phả dòng họ, sắc phong, khế ước ruộng đất, văn cúng, mộc bản… ở các địa phương Thạch Hà, Can Lộc, Lộc Hà, góp phần bảo quản lâu dài nội dung nguồn tư liệu Hán Nôm hiện có trong nhân dân đang xuống cấp nghiêm trọng.
Việc ứng dụng CNTT trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa ở Bảo tàng tỉnh và các ban quản lý di tích ở tỉnh Hà Tĩnh là xu hướng tất yếu trong tương lai không chỉ trong khâu công tác kiểm kê, bảo quản, nghiên cứu di sản mà còn trong công tác trưng bày.
Công tác truyền thông trong bảo tàng và di tích cũng cần đến CNTT. Việc tận dụng mạng xã hội, trang thông tin điện tử, Báo điện tử… đang được Bảo tàng tỉnh áp dụng nhằm thông tin đến với công chúng, các nhà quản lý về hoạt động của đơn vị góp phần truyền bá các kiến thức khoa học. Năm 2019, Bảo tàng tỉnh lập trang thông tin điện tử của riêng mình nhằm đăng nhiều tin, bài, ảnh với mục đích quảng bá các hoạt động của đơn vị, giới thiệu các tài liệu, hiện vật gốc của bảo tàng, các di sản văn hóa của tỉnh Hà Tĩnh, công bố các kết quả nghiên cứu đến với đông đảo công chúng trong và ngoài nước.
Trong công tác bảo vệ an ninh, việc ứng dụng internet vạn vật đã được Bảo tàng tỉnh thực hiện. Các camera an ninh được lắp đặt ở kho bảo quản, nhà làm việc, kết nối với điện thoại thông minh (smartphone), máy tính giúp lãnh đạo đơn vị và cán bộ bảo vệ theo dõi thường xuyên 24/24 giờ giảm thiểu trộm cắp, mất mát và phòng chống cháy nổ.
Như trên đã nói, việc ứng dụng CNTT sẽ làm thay đổi cách thức làm việc của Bảo tàng tỉnh, hướng tới hiệu quả, nhanh chóng, khoa học, hiện đại, chính xác, dễ ứng dụng và đã được thực tiễn kiểm chứng.
Để áp dụng thành công hơn nữa CNTT vào hoạt động của mình, Bảo tàng tỉnh cần các cấp liên quan quan tâm bố trí kinh phí nhiều hơn nữa cho việc trang bị thiết bị, đào tạo, tập huấn cán bộ chuyên môn đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công việc bởi việc ứng dụng CNTT của Bảo tàng tỉnh sẽ mạng lại:
- Thúc đẩy năng suất lao động từ đó góp phần tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế.
- Đào tạo, rèn luyện kỷ năng làm việc mới cho cán bộ viên chức làm công tác di sản văn hóa.
- CNTT dễ ứng dụng, mang lại hiệu quả tức thì.
- Mang lại tính khoa học, sự đồng bộ, dễ liên kết giữa các cơ quan liên quan lại với nhau, thúc đẩy trao đổi thông tin./.