Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Tiến sĩ Dương Trí Trạch (1586 – 1662) làm quan dưới triều Lê - Trịnh, ông là người có nhiều cống hiến cho đất nước trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao, trong đó nổi bật là lĩnh vực giáo dục khoa cử Nho học. Thông qua nguồn tài liệu như: Lịch đại đăng khoa, Lịch triều đăng khoa, Đăng khoa sư giảng, Liệt huyện đăng khoa bị khảo, Đại Việt sử ký toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí, Nghệ An ký .v.v... cung cấp những thông tin hữu ích để tìm hiểu về thân thế, sự nghiệp và những đóng góp của Tiến sĩ Dương Trí Trạch cho giáo dục khoa cử Nho học nói chung và Văn Miếu Quốc tử giám nói riêng một cách hệ thống.
1. Một vài nét về quê hương, gia đình và dòng họ
Dương Trí Trạch (1586 – 1662), người làng Sơn Huy, xã Bạt Trạc, huyện Thiên Lộc (nay là xã Khánh Vĩnh Yên, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh). Tổ tiên của ông vốn quán tại xã Hoa Viên, huyện Hưng Nguyên (nay thuộc tỉnh Nghệ An), đời cụ Phúc Minh di cư đến xã Bạt Trạc, huyện Thiên Lộc . Ông nội là Đệ nhất giáp Chế khoa Tả thị lang Binh bộ Dương Trí Dụng, thân phụ là Tả thị lang Công bộ Thái bảo Nham Thạch hầu Dương Trí Thân. Dương Trí Trạch xuất thân từ dòng họ có truyền thống hiếu học và khoa bảng, truyền thống hiếu học của tiền nhân là tấm gương cho các thế hệ sau noi theo, tiếp bước. Dương Trí Trạch thi đậu Tiến sĩ khoa Kỷ Mùi niên hiệu Hoằng Định thứ 20 (1619) đời Lê Kính Tông, năm ông 34 tuổi, sau đó tham gia chính sự và làm quan đến chức Tham tụng, Hộ bộ Thượng thư, hàm Thiếu bảo. Khi về trí sĩ, được thăng Lại bộ Thượng thư, Quốc lão, Thái bảo, sau khi mất, được tặng hàm Thái tể.
Bia đá tại Đền thờ Dương Trí Trạch, xã Khánh Vĩnh Yên - Can Lộc - Hà Tĩnh
2. Tiến sĩ Dương Trí Trạch với Văn Miếu Quốc Tử giám
Thời Lê - Trịnh có nhiều sự kiện chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa và giáo dục ảnh hưởng đến quốc gia dân tộc, trong đó có lĩnh vực giáo dục khoa cử Nho học có nhiều thay đổi. Bối cảnh lịch sử giữa thế kỷ XVI, khi nhà Lê bị nhà Mạc thay thế vào năm 1527, phải lui vào vùng Yên Trường, Thanh Hóa lánh nạn, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn nhưng nhà Lê vẫn tổ chức Khoa thi Điện (tức Chế khoa) đầu tiên vào năm 1554 để tuyển chọn nhân tài. Đến năm 1592, sau khi chiếm lại được Thăng Long từ nhà Mạc, nhà Lê tổ chức các kỳ thi đều đặn hơn. Đến khoa thi Quý Mùi (1643), Tiến sĩ Dương Trí Trạch được cử làm Giám Thí: “Giám Thí là Lễ bộ Tả Thị lang kiêm Hàn lâm viện thị giảng, Tham chưởng Hàn Lâm viện sự Dương Trí Trạch” và lần đầu tiên với trọng trách được giao, ông đã tổ chức tốt cuộc thi này để tuyển chọn nhân tài cho triều đình. Theo văn bia Tiến sĩ tại Văn Miếu Quốc Tử giám cho biết, Tiến sĩ Dương Trí Trạch được triều đình giao trọng trách tổ chức 3 kỳ thi đại khoa để tuyển chọn nhân tài gồm: Khoa thi Quý Mùi (1643), khoa thi năm Bính Tuất (1646) và khoa thi năm Nhâm Thìn (1652). Trong 3 kỳ thi ấy Dương Trí Trạch được một lần giữ nhiệm vụ là Giám Thí và hai lần được giao trọng trách làm Tri Cống cử. Trong cả ba khoa thi nêu trên, Tiến sĩ Dương Trí Trạch đã phát huy tinh thần trách nhiệm giúp triều đình tuyển chọn được 35 Tiến sĩ, góp phần xây dựng, củng cố và bồi dưỡng tầng lớp trí thức Nho học phục vụ đất nước. Trong số những vị đại khoa được tuyển chọn kỳ này không ít người trở thành những bậc hiền tài của triều đình như Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Quý Sửu, niên hiệu Hoàng Định thứ 14 (1613) đã chép: “Yêu nước trung vua, không lúc ngưng nghỉ dốc lòng giúp sáng Vương độ, vững chắc làm trụ đá Hoàng gia, đặt thiên hạ vào chốn vững yên như Thái sơn bàn thạch”.
Đáng chú ý thời Lê Trung Hưng việc thi cử đã được tổ chức đều đặn, tuy nhiên từ năm Thuận Bình thứ 6 (1554) đến năm Khánh Đức thứ 4 (1652) triều Lê đã tổ chức được 25 khoa thi, nhiều người đỗ đạt nhưng chưa được dựng Bia tại Văn Miếu Quốc Tử giám. Do đó, sau hơn một trăm năm gián đoạn do chiến tranh, bất ổn thì nhà Lê mới tiến hành một đợt dựng bia Tiến sĩ lớn nhất tại Văn Miếu, công việc trọng đại này đã được triều đình giao đích danh cho: Thượng thư Bộ Lễ kiêm Hàn lâm viện Thị giảng, Tham Chưởng Hàn lâm viện sự, Bạt Quận công Thượng trụ quốc Dương Trí Trạch đảm trách. Từ đây, Tiến sĩ Dương Trí Trạch có trách nhiệm sưu tầm hồ sơ các khoa thi, sao lục tên họ những người thi đỗ Chế khoa kể từ năm Giáp Dần (1554) đến năm giáp Thìn, Khánh Đức thứ 4 (1652). Ông là người chịu trách nhiệm cung cấp danh sách Tiến sĩ các khoa để khắc bia và người tổng duyệt tất cả bia khắc dựng trong đợt truy lập này, do đó hầu hết lời khắc trên bia đều do ông sắc nhuận, khảo đính, chú giải. Cụ thể, trong bài Ký Bia đề danh Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1592), Dương Trí Trạch đã sắc nhuận một văn bia có đoạn như sau: “Bề trên đặt khoa thi cốt để thu hút nhân tài, đâu phải để trông vào cho đẹp mắt. Kẻ dưới đăng tên dự thi là để theo bậc thang mà bước lên đường huân nghiệp, đâu phải để mưu cầu danh lợi. Bởi nền chính sự tốt đẹp của quốc gia không có nhân tài thì không thể gây dựng được mà kẻ hào kiệt ắt phải do khoa cử thì mới có dịp tiến thân” . Viết về những đóng góp của Tiến sĩ Dương Trí Trạch với sự nghiệp giáo dục khoa bảng, sách Lịch triều Hiến chương loại chí chép: “Đầu đời Trung hưng [các người đỗ] từ chế khoa năm Thuận Bình giáp Dần (1554) đến năm Khánh Đức Nhâm Thìn (1652) cộng 25 khoa, chưa có bia đề tên, đến nay ông vâng chỉ khắc tên vào bia đá. Khi làm xong việc long trọng ấy rồi được vào làm Tham tụng phủ Chúa, lên Thượng thư Bộ Hộ thêm chức Thiếu bảo”. Có thể nói, người sắc nhuận văn bia, bài ký để khắc tại Văn Miếu phải là người thực tài mới sửa sang được ý tứ, câu từ của các bài ký, qua đó cho thấy được giá trị tư tưởng của các tác gia và thời đại. Tiến sĩ Dương Trí Trạch là người đã dày công sưu tầm hồ sơ, rà soát những thông tin về 25 khoa thi, họ tên, quê quán, thứ bậc đỗ của 218 vị tiến sĩ trong gần một thế kỷ (1554-1652) để các quan Bộ Công, những người thợ khắc chữ chạm đá, trang trí rùa bia cùng thi hành công việc một cách chính xác nhất. Qua đó chúng ta phần nào hình dung được công lao của Dương Trí Trạch và các cộng sự của ông đối với việc dựng bia Tiến sĩ tại Văn Miếu, một công việc rất có ý nghĩa lúc bấy giờ. Đây là một đóng góp quan trọng của Tiến sĩ Dương Trí Trạch làm cho hệ thống bia Tiến sĩ ở Văn Miếu Quốc tử giám không chỉ là một công trình văn hóa hoàn chỉnh mang nhiều giá trị mà còn có ý nghĩa khích lệ tinh thần hiếu học cho đương thời và muôn đời sau.
Dưới đây là 25 tác phẩm văn bia do Tiến sĩ Dương Trí Trạch sắc nhuận và phục dựng vào ngày 16 tháng 11 niên hiệu Thịnh Đức năm thứ 1 (1653). Khi ấy ông giữ chức “Dực vận Tán trị công thần Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Thượng thư Bộ Lễ kiêm Hàn lâm viện Thị giảng, Tham Chưởng Hàn lâm viện sự, Bạt Quận công Thượng trụ quốc Dương Trí Trạch”. Những văn bia này hiện đang được lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, có các ký hiệu như sau:
1. Thuận Bình lục niên Giáp Dần chế khoa đề danh ký/ Văn bia đề danh chế khoa Giáp Dần niên hiệu Thuận Bình năm thứ 6 (1554), ký hiệu No.1357.
2. Chính Trị bát niên Ất Sửu chế khoa Tiến sĩ đề danh ký/ Văn bia đề danh Tiến sĩ chế khoa Ất Sửu niên hiệu Chính Trị năm thứ 8 (1565), ký hiệu No.1322
3. Gia Thái ngũ niên Đinh Sửu chế khoa Tiến sĩ đề danh ký/ Văn bia đề danh Tiến sĩ chế khoa Đinh Sửu niên hiệu Gia Thái năm thứ 5 (1577), ký hiệu No.1367.
4. Quang Hưng tam niên Canh Thìn khoa Tiến sĩ đề danh ký/ Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Canh Thìn niên hiệu Quang Hưng năm thứ 3 (1580), ký hiệu No.1325.
5. Quang Hưng lục niên Quý Mùi khoa Tiến sĩ đề danh ký/ Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Quý Mùi niên hiệu Quang Hưng năm thứ 6 (1583), ký hiệu No.1364.
6. Quang Hưng thập nhị niên Kỷ Sửu khoa Tiến sĩ đề danh ký/ Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Kỷ Sửu niên hiệu Quang Hưng năm thứ 12 (1589), ký hiệu No.1363.
7. Quang Hưng thập ngũ niên Nhâm Thìn khoa Tiến sĩ đề danh ký/ Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn niên hiệu Quang Hưng năm thứ 15 (1592), ký hiệu No.1332.
8. Quang Hưng thập bát niên Ất Mùi khoa Tiến sĩ đề danh ký/ Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Ất Mùi niên hiệu Quang Hưng năm thứ 18 (1595), ký hiệu No.1370.
9. Quang Hưng nhị thập nhất niên Mậu Tuất khoa Tiến sĩ đề danh ký/ Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Mậu Tuất niên hiệu Quang Hưng năm thứ 21 (1598), ký hiệu No.1339.
10. Hoằng Định tam niên Nhâm Dần khoa Tiến sĩ đề danh ký/ Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Nhâm Dần niên hiệu Hoằng Định năm thứ 3 (1602), ký hiệu No.1372.
11. Hoằng Định ngũ niên Giáp Thìn khoa Tiến sĩ đề danh ký/ Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Giáp Thìn niên hiệu Hoằng Định năm thứ 5 (1604), ký hiệu No.1373.
12. Hoằng Định bát niên Đinh Mùi khoa Tiến sĩ đề danh ký/ Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Đinh Mùi niên hiệu Hoằng Định năm thứ 8 (1607), ký hiệu No.1371
13. Hoằng Định thập nhị niên Canh Tuất khoa Tiến sĩ đề danh ký/ Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Canh Tuất niên hiệu Hoằng Định năm thứ 12 (1610), ký hiệu No.1374.
14. Hoằng Định thập tứ niên Quý Sửu khoa Tiến sĩ đề danh ký/ Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Quý Sửu niên hiệu Hoằng Định năm thứ 14 (1613), ký hiệu No.1351
15. Hoằng Định thập thất niên Bính Thìn khoa Tiến sĩ đề danh ký/ Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Bính Thìn niên hiệu Hoằng Định năm thứ 17 (1616), ký hiệu No.1375
16. Hoằng Định nhị thập niên Kỷ Mùi khoa Tiến sĩ đề danh ký/ Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Kỷ Mùi niên hiệu Hoằng Định năm thứ 20 (1619), ký hiệu No.1376.
17. Vĩnh Tộ ngũ niên Quý Hợi khoa Tiến sĩ đề danh ký/ Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Quý Hợi niên hiệu Vĩnh Tộ năm thứ 5 (1623), ký hiệu No.1354.
18. Vĩnh Tộ thập niên Mậu Thìn khoa Tiến sĩ đề danh ký/ Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Mậu Thìn niên hiệu Vĩnh Tộ năm thứ 10 (1628), ký hiệu No.1303.
19. Long Đức tam niên Tân Mùi khoa Tiến sĩ đề danh ký/ Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Tân Mùi niên hiệu Đức Long năm thứ 3 (1631), ký hiệu No.1304.
20. Dương Hòa tam niên Đinh Sửu khoa Tiến sĩ đề danh ký/ Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Đinh Sửu niên hiệu Dương Hòa năm thứ 3 (1637), ký hiệu No.1314.
21. Dương Hòa lục niên Canh Thìn khoa Tiến sĩ đề danh ký/ Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Canh Thìn niên hiệu Dương Hòa năm thứ 6 (1640), ký hiệu No.1308.
22. Phúc Thái nguyên niên Quý Mùi khoa Tiến sĩ đề danh ký/ Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Quý Mùi niên hiệu Phúc Thái năm thứ 1 (1643), ký hiệu No.1307.
23. Phúc Thái tứ niên Bính Tuất khoa Tiến sĩ đề danh ký/ Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Bính Tuất niên hiệu Phúc Thái năm thứ 4 (1646), ký hiệu No.1306.
24. Khánh Đức nhị niên Canh Dần khoa Tiến sĩ đề danh ký/ Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Canh Dần niên hiệu Khánh Đức năm thứ 2 (1650), ký hiệu No.1309
25. Khánh Đức tứ niên Nhâm Thìn khoa Tiến sĩ đề danh ký/ Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn niên hiệu Khánh Đức năm thứ 4 (1652), ký hiệu No.1305.
Trên đây là 25 văn bia mà Tiến sĩ Dương Trí Trạch đã có trách nhiệm sắc nhuận, chỉnh lý, bổ sung hoàn thiện và để thấy rõ hơn về tư tưởng cũng như văn ngôn của ông, dưới đây là đoạn đầu của văn bia số 22 mang ký hiệu No.1306 do Tiến sĩ Dương Trí Trạch sắc nhuận:
“ Đời mở nền trí trị, vận thuộc thời yên bình.
Kính nghĩ: Thái Tổ Cao hoàng đế thánh triều, trời ban trí dũng, từng trải kinh luân, xua hết loài cọp beo, giữ cho dân yên ổn, việc đầu dựng trường học nuôi dưỡng nhân tài thiên hạ. Liệt thánh hoàng đế kế thừa thể chế thành pháp, làm sáng rõ quy mô, vun mạch nhân hậu, chỉnh đốn kỷ cương bốn phương, rộng đặt khoa trường để đón bậc tuấn kiệt trong thiên hạ. Buổi bấy giờ khoa mục thịnh hành, văn phong chấn phát, cơ nghiệp thái bình ức vạn năm chính là ở lúc này.
Bỗng chốc ngụy Mạc phạm thượng, nhưng quốc thống như sợi chỉ chưa đứt. May thay mệnh trời chưa đổi, cơ hội trung hưng chính là ở lúc này. Trang Tông Dụ hoàng đế, Trung Tông Vũ hoàng đế, Anh Tông Tuấn hoàng đế kế thừa nghiệp lớn, đều nhờ sức Thế Tổ Minh Khang đại vương giúp cho sáng lại nhật nguyệt đôi vừng. Khi ấy mở Chế khoa gồm hai khoa để chọn dùng nhân tài, chấn hưng sự nghiệp. Thế Tông Nghị hoàng đế, Kính Tông Huệ hoàng đế khôi phục cơ đồ lớn, nhờ hẳn vào công của Thành Tổ Triết vương chỉnh đốn tái tạo lại đất trời. Buổi ấy đặt Chế khoa một khoa, Tiến sĩ 13 khoa, cất nhắc sử dụng hiền tài để cùng lo dựng lại kỷ cương.
Kính nghĩ: Hoàng thượng bệ hạ thánh văn thần võ, sáng suốt thông minh, từ khi mới lên ngôi thực nhờ có [Đại nguyên súy Thống quốc chính Sư phụ Thanh vương] vỗ yên thiên hạ, gây dựng trị công, tùy thời đặt khoa mục, có tiếng là được nhân tài. Đến năm Quý Mùi bèn truyền ngôi cho Chân Tông Thuần hoàng đế, đặt niên hiệu Phúc Thái năm đầu, vừa đúng tiết tiểu xuân, cho mở khoa thi lớn. Khi đó sĩ tử trong thiên hạ đến đua tài trên 2.000 người, vào trúng cách chỉ được 9 người. Quan hữu ty đem tên dâng lên, vua sai chọn ngày cho vào Điện thí. Đặc sai Đề điệu là Thái bảo Kiên Quận công Trịnh Quân, Tri Cống cử là Ngự sử đài Đô Ngự sử Thọ Lĩnh hầu Nguyễn Nghi, Giám thí là Lễ bộ Tả Thị lang kiêm Hàn lâm viện Thị giảng, Tham Chưởng Hàn lâm viện sự Thọ Diên hầu Dương Trí Trạch, Lại bộ Hữu Thị lang Mỹ Thọ bá Nguyễn Quang Minh chia giữ các việc.
Hôm sau dâng quyển lên đọc. Vua đích thân xem và định thứ bậc, cho Nguyễn Khắc Thiệu, Lê Hiệu hai người đỗ Tiến sĩ xuất thân; bọn Lê Đình Dự 7 người đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân.
Ngày hôm đó, Hoàng thượng ngự ở cửa điện Kính Thiên, loa truyền tên người đỗ, Bộ Lễ rước bảng vàng treo ngoài cửa nhà Thái học. Sau đó sai ban ân huệ, cho áo mũ, yến tiệc, nghi lễ ban thưởng thật đã hết mức vậy.
Nay nghĩ: Hoàng đế bệ hạ lại nối ngôi báu, làm sáng đẹp công người xưa. Thực nhờ [Đại nguyên súy Thống quốc chính Sư phụ Thanh vương] sáng suốt phò thánh chúa, dốc sức cầu hiền tài, cùng [Nguyên súy Chưởng quốc chính Tây Định vương] đồng lòng cung kính, chiêu nạp nhân tài, kế tiếp mở khoa trường, nhân văn càng rực rỡ. Xét từ năm Thuận Bình (1549-1555) tới nay, cả thảy 26 khoa, việc dựng bia đá còn chưa theo lệ. Bèn sai quan Bộ Công chọn đá, sai từ thần soạn bài ký. Thần vâng thuật lại khoa này, kính cẩn cúi đầu rập đầu dâng lời rằng:
Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, khoa mục là chí công của thiên hạ. Xưa nhà Thành Chu lập trường quốc học là cách để lấy hiền tài, đã có tuyển Tiến sĩ, đó là khởi đầu. Về sau, nhà Đường cho Tiến sĩ là bảng Long hổ, nhà Tống cho Tiến sĩ là khoa Tướng tướng. Thế đủ biết việc đặt khoa mục đã có từ lâu vậy.
Đến nay Hoàng thượng bệ hạ ở ngôi vua, nắm cơ tạo tác, làm chấn phát lớn Nho phong, mở mang phô bày văn giáo. Cho nên nhân tài nối nhau xuất hiện làm bậc danh thần của nước nhà. Còn như khoa thi này là khoa đầu tiên của niên hiệu Phúc Thái, được nhiều nhân tài, làm vẻ vang hơn đời trước. Nay dựng bia đá một lần mà truyền tới lâu dài, đạo tác thành nhân tài, cách khích lệ kẻ sĩ há chẳng rõ ràng, đầy đủ lắm sao?
Thế thì người được khắc tên vào tấm đá này nên cảm kích khắc ghi ơn lớn, dồi mài danh tiết, lấy việc trí quân trạch dân làm trách nhiệm, lấy việc giúp đời hành đạo làm niềm vui, khiến thiên hạ yên ổn như Thái Sơn, nước nhà vững như bàn thạch. Ngày sau người ta tất sẽ chỉ tên mà khen thì tên tuổi ấy còn mãi, thời gian càng xa càng thêm rực rỡ vậy. Còn như ngoài cứng trong mềm, trước trong trắng sau tì vết, danh thực sai lệch, lời nói việc làm trái ngược thì đích thực chỉ làm vết nhơ cho khoa mục, há chẳng đáng răn đe sao!
Thế thì cái cơ vi dẫn đến thành tựu của các bậc thánh đức thần công thật hết mức tinh vi, hết mức huyền diệu, không chỉ khiến sĩ phu đương thời một lòng cố gắng giúp đời thịnh trị như Tam đại Đường Ngu, mà còn tỏ cho kẻ học đời sau biết để khuyên răn, để cùng nhau xem báo đổi lông, phượng gáy múa, nhân tài lớp lớp xuất hiện bảo vệ cho con cháu và lê dân ta đời đời, xã tắc cơ đồ vững bền mãi mãi”.
Thần kính cẩn làm bài ký.
Dực vận Tán trị công thần Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Thượng thư Bộ Lễ kiêm Hàn lâm viện Thị giảng Tham Chưởng Hàn lâm viện sự Bạt Quận công Dương Trí Trạch vâng sắc nhuận.
Cẩn sự lang Hàn lâm viện Hiệu thảo Nguyễn Đình Chính vâng sắc soạn.
Trung thư giám Hoa văn học sinh Đàm Phú Hoành quê xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai vâng sắc viết chữ (chân kiêm chữ triện).
Bia dựng ngày 16 tháng 11 niên hiệu Thịnh Đức thứ 1 (1653).
Qua những tư liệu trên đã phác họa nét chính về những đóng góp của Tiến sĩ Dương Trí Trạch đối với Văn Miếu, tuy chưa thực sự phong phú đa dạng, song những nội dung trên đã phản ánh khá rõ tư tưởng và những đóng góp khá nổi bật của ông đối với sự nghiệp giáo dục Nho học của nước nhà. Sau hơn 40 năm tham gia chính sự, Bạt Quận công Dương Trí Trạch về trí sĩ, tháng 6 năm Tân Sửu (1661) ông được vua Lê Thần Tông gia phong: “ Hộ bộ Thượng thư kiêm Hàn Lâm viện thị giảng chưởng Hàn Lâm viện sự Thiếu bảo Bạt quận công Dương Trí Trạch làm Lại bộ Thượng thư Quốc lão Thái tể” . Đồng thời, nhà vua tặng ông đôi câu ca ngợi như sau:
Hán Văn:
四 十 年 立 朝 朝 廷 意 重
七 十 歲 致 仕 仕 宦 成 名
Phiên âm:
“Tứ thập niên lập triều, triều đình ý trọng;
Thất thập tuế trí sĩ, sĩ hoạn thành danh”.
Dịch nghĩa
(Bốn chục năm ở triều, triều đình trọng dụng;
Bảy chục tuổi về hưu, đỗ đạt làm quan đều nổi tiếng).
Ngoài ra, ông còn được nhà vua cho khắc một bia đá vinh quy hồi hương, văn bia do nhà vua viết tặng ghi nhận công lao đóng góp cho triều đình trong những năm ông làm quan. Tấm bia được tạc theo mẫu ở Văn Miếu và soạn lời bia đề năm Thịnh Đức thứ nhất (1653), hai mặt bia khắc chữ Hán ca ngợi công lao sự nghiệp của ông, nhưng dưới thời vua Minh Mạng triều Nguyễn những nơi có thờ tự bia đá thời Lê - Trịnh phải mài đục bỏ, do đó dòng họ Dương đã cho đục mài hết chữ nên hiện nay không còn nội dung của bài văn bia này. Một năm sau khi về quê, năm Nhâm Dần (1662) Bạt quận công Dương Trí Trạch qua đời, thọ 77 tuổi. Vị hiệu đặt tại đền thờ ghi: “Tiên tổ khảo tứ vị khoa Đồng Tiến sĩ xuất thân, Dực vận tán trị công thần, Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu, Tham tụng Lại bộ Thượng thư kiêm Hàn lâm viện Thị giảng, Tham Chưởng Hàn Lâm viện sự, Thượng trụ quốc lão Thái bảo, Bạt Quận công trí sĩ, tặng Thái tể Dương tướng công, tự Trung Ý, phụng tứ thụy Nha Chính, khâm bao phong Nguy công Đại vương”.
Sự nghiệp chính trị nói chung của Tiến sĩ Dương Trí Trạch được sử gia Phan Huy Chú đánh giá: “Ở triều hơn 40 năm, trải qua các chức vụ ở viện Khu mật đã lâu, tính thẳng thắn giữ luật phép (của triều đình) không có ai thỉnh thác được, bàn việc gì tuy hơi nghiêm khắc nhưng theo lẽ công bằng giữ điều ngay thẳng bây giờ ai khen cũng là danh thần” và “Lập nhiều chiến công chói lọi, sự nghiệp khi làm việc rất trọn vẹn tốt đẹp” . Ghi nhận công lao của ông đối với triều đình, vua Lê đã ban sắc phong: “Hồng nho Thạc đức, nguyên lão đại thần” (Nghĩa là: Núi Hồng sinh ra người có công đức cao, vị đại thần cao tuổi đứng đầu quan triều đình).
Như vậy, qua tư liệu lịch sử cho biết Tiến sĩ Bạt quận công Dương Trí Trạch là một vị quan thanh liêm, văn võ kiêm toàn, công trạng của ông được sử sách ghi nhận, triều đình vinh danh, nhân dân tôn thờ lập đền thờ phụng. Đặc biệt, những đóng góp của Tiến sĩ Dương Trí Trạch cho sự nghiệp giáo dục khoa bảng và Văn Miếu Quốc tử giám là những cống hiến to lớn xứng đáng được tôn vinh./.
Chú thích:
1. Theo Bùi Dương Lịch (Nguyễn Thị Thảo dịch 2004), Nghệ An ký, Nxb Khoa học xã hội, tr.294: Cụ Phúc Minh sinh được 3 người con trai đều đỗ Hương cống. Con út của cụ Phúc Minh sinh ra Dương Trí Dụng, Dương Trí Dụng sinh ra Dương Trí Thân làm Hiến sát Phó sứ Sơn Nam.
2. Theo Trạng nguyên, Tiến sĩ, Hương cống Việt Nam: Dương Trí Dụng là ông nội của Dương Trí Trạch, ông cháu cùng đỗ đại khoa. Đệ nhất giáp Chế khoa Ất Sửu niên hiệu Chính Trị 8 (1565) đời Lê Anh Tông. Khoảng năm Quang Hưng (1578 – 1599) giữ chức Hộ bộ Hữu thị lang, tước Lâm Hoa bá, sau thăng Binh bộ Tả thị lang kiêm lĩnh chức Thừa chánh sứ trấn Sơn Nam. Sau khi mất, được tặng Binh bộ Thượng thư, Thái bảo, tước Lâm quận công. Sđd, tr.76.
3. Thái Kim Đỉnh (2004), Các nhà khoa bảng Hà Tĩnh, NXB Hội Liên hiệp V.H.N.T. Hà Tĩnh, tr.53.
4. Ngô Đức Thọ (2010), Văn bia Tiến sĩ Văn miếu Quốc Tử giám Thăng Long, Nxb Hà Nội, tr. 511.
5. Trích bài ký đề danh Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn niên hiệu Quang Hưng thứ 15 (1592).
6. Phan Huy Chú (2008), Lịch triều Hiến chương loại chí, Nxb Trẻ, tr.172.
7. Đại Việt sử ký toàn thư (2004), Nxb Văn hóa Thông tin, tr. 833.
8. Lịch triều Hiến chương loại chí, 2014, Dư địa chí, NXB Trẻ, tr.109.
9. Đại Việt sử ký Toàn thư (2004), Nxb Văn hóa Thông tin, tr. 824
Tài liệu tham khảo
1. Thái Kim Đỉnh (2004), Các nhà khoa bảng Hà Tĩnh, Hội LHVH Nghệ thuật Hà Tĩnh.
2. Đại Việt Sử ký toàn thư (2004), Nxb Văn hóa Thông tin.
3. Phan Huy Chú (2008), Lịch triều Hiến chương loại chí, Nxb Trẻ.
4. Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Hữu Mùi (2006), Các nhà khoa bảng Việt Nam, Nxb Văn học.
5. Bùi Dương Lịch (Nguyễn Thị Thảo dịch 2004), Nghệ An ký, Nxb Khoa học xã hội.
6. Bùi Hạnh Cẩn, Minh Nghĩa, Việt Anh (2002), Trạng nguyên, Hương cống, Tiến sĩ Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin.
7. Ngô Đức Thọ (2010), Văn Miếu Quốc tử giám và 82 bia Tiến sĩ, NXB Hà Nội.