Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Phạm Khắc Hòe, quê ở xã Đức Nhân, nay là xã Bùi La Nhân, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh năm 1901, mất năm 1995, trong một gia đình có truyền thống hiếu học, cha là Tú tài Phạm Khắc Khoan. Lúc nhỏ, ông học chữ Nho và chữ Quốc ngữ ở trường làng. Năm 1916, bắt đầu vào học ở trường Tiểu học Pháp - Việt ở Vinh. Tháng 3 năm 1918, ông tham dự khoa thi Hương cuối cùng của triều Nguyễn nhưng chỉ đỗ đến Tam trường (Tú tài). Cũng khoa thi này, Lê Thước đỗ Giải nguyên trường thi Nghệ An.
Phạm Khắc Hòe vào học Trường Quốc học Huế, tốt nghiệp năm 1923. Tiếp đó, ông lại ra Hà Nội học trường Cao đẳng Pháp luật và Hành chính Hà Nội. Năm 1925, tốt nghiệp và được phân công làm Tham biện Tòa sứ ở Huế, sau đổi vào Quy Nhơn, đến năm 1933 thì chuyển sang ngạch quan lại triều đình nhà Nguyễn. Đầu năm 1936, Phạm Khắc Hòe được bổ làm Tri huyện Thanh Chương, rồi Tri phủ Diễn Châu. Năm 1940, chuyển vào làm Quản đạo Đà Lạt.
Trong thời gian ở Đà Lạt, có điều kiện tiếp xúc với các tầng lớp Nhân dân, đặc biệt là những người dân Nghệ Tĩnh vào đây làm ăn sinh sống nhưng không có đất canh tác, Phạm Khắc Hòe đã xin được một khu đất rộng gần chục hecta, rồi kêu gọi anh chị em quê ở Đô Lương, Đức Thọ (Nghệ Tĩnh) đang sống rãi rác dưới các thung lũng chuyển về đây sinh sống, cùng chăn nuôi, trồng rau, hoa, cây cảnh, thành lập nên “Ấp Nghệ Tĩnh”. Ấp Nghệ Tĩnh ban đầu chỉ có khoảng 30 nóc nhà, sau phát triển khá đông đúc. Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, “Ấp Nghệ Tĩnh” là một trong những cơ sở cách mạng quan trọng của Đà Lạt. Nghiêm Nghị - Ủy viên Quân sự Ủy ban Nhân dân Cách mạng tỉnh Lâm Viên [1] lúc bấy giờ chính là một trong những người con của “Ấp Nghệ Tĩnh”. Cùng với “ấp Hà Đông” do Tổng đốc Hà Đông Hoàng Trọng Phu thành lập năm 1938, gồm những người được đưa từ Quảng Bá, Ngọc Hà (Hà Nội) vào Đà Lạt; “Ấp Nghệ Tĩnh” đã tạo được rất nhiều dấu ấn tốt đẹp với người dân bản địa, đóng góp tích cực cho sự phát triển của mảnh đất và con người Đà Lạt. Hiện “ấp Nghệ Tĩnh” vẫn tồn tại, nay thuộc phường Tám, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.
Làm Quản đạo Đà Lạt được 4 năm, đến năm 1944, Phạm Khắc Hòe được điều về Huế, giữ chức Ngự tiền Văn phòng Tổng lí, hàm Thượng thư.
Triều Nguyễn, từ năm 1934 bãi bỏ chức Nội các, lập ra Ngư tiền Văn phòng. Ngự tiền Văn phòng Tổng lý là người chuẩn bị, kiểm tra, soát xét tất cả các văn bản, bút phê của nhà vua, chịu trách nhiệm trước nhà vua về mọi mặt ở Đại Nội. Tất cả các quan chức nhân viên văn võ tùng sự tại Đại Nội đều đặt dưới quyền của Ngự tiền Văn phòng Tổng lí.
Giữ chức Ngự tiền Văn phòng Tổng lí trong thời gian không dài (chỉ gần 2 năm), lại ở trong thời kỳ phong trào cách mạng cả nước dâng cao, Nhật hất cẳng Pháp ở Đông Dương rồi đầu hàng Đồng Minh, triều Nguyễn mất hết vai trò lịch sử… nhưng Phạm Khắc Hòe vẫn có những ứng xử vô cùng linh hoạt, nhạy bén, tận dụng tối đa mọi thời gian, cơ hội bên cạnh vua Bảo Đại, phân tích, lý giải để vận động nhà vua từng bước thay đổi nhận thức về thời cuộc, loại bỏ những ảo tưởng về sự giúp đỡ của chính phủ Thiên triều (Nhật Bản), về sức mạnh của chính phủ do Trần Trọng Kim thành lập, để nhà vua có thể thoái vị một cách tự nguyện.
Vua Bảo Đại lúc đầu rất phân vân, do dự trong việc thoái vị, bởi trong suy nghĩ của nhà vua lúc bấy giờ có rất nhiều mâu thuẫn. Một chế độ do các thế hệ vua chúa triều Nguyễn truyền lại 143 năm không dễ gì từ bỏ, rồi ông sẽ có tội gì với tổ tiên khi đã không giữ được ngai vàng; chính sách của Việt Minh cũng chưa có ai giải thích cho nhà vua thấu đáo… Hơn nữa, một khi từ bỏ vương quyền, liệu ông có được hưởng cuộc sống xa hoa, sung sướng nữa hay không… Tất cả những điều đó làm cho Bảo Đại trăn trở, đồng thời cũng là điều khiến Phạm Khắc Hòe phải dày công thuyết phục.
Trong những ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945 sục sôi trên khắp cả nước, với vai trò của mình, Phạm Khắc Hòe đã luôn giữ mối dây liên hệ chặt chẽ với các nhà yêu nước, các trí thức lớn lúc bấy giờ như Huỳnh Thúc Kháng, Bùi Bằng Đoàn, Hoàng Xuân Hãn, Phan Anh… phối hợp với các lãnh đạo Việt Minh tại Huế để dẫn dắt phong trào cách mạng đi theo hướng thuận lợi.
Sau khi đã thuyết phục được nhà vua, Phạm Khắc Hoè đã thảo Chiếu thoái vị cho vua Bảo Đại đọc vào chiều ngày 30/8/1945 tại lầu Ngọ Môn. Trong buổi lễ thoái vị này, Bảo Đại đã nói một câu nổi tiếng “Trẫm thà làm dân của một nước tự do còn hơn là làm vua của một nước nô lệ”. Hai từ “tự do” vang lên đã làm cho 2 vạn đồng bào ở Huế dự mít tinh vô cùng xúc động. Và cũng chỉ 3 ngày sau đó, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, hai từ “tự do” lại được Nhân dân thủ đô hô vang ở khắp mọi nơi.
Có thể nói, nếu không có Phạm Khắc Hòe bên cạnh vua Bảo Đại những năm cuối cùng của triều Nguyễn, không có sự khẳng khái cũng như bản lĩnh hơn người của Phạm Khắc Hòe để thuyết phục vua Bảo Đại, chưa hẳn chúng ta đã có được một cuộc chuyển giao quyền lực êm thấm, nhanh chóng và không gây đổ máu như thực tế đã diễn ra. Có lẽ, lịch sử đã chọn Phạm Khắc Hòe trong những thời điểm quan trọng là vậy.
Sau khi từ bỏ ngai vàng, vua Bảo Đại đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời ra làm Cố vấn cho Chính phủ lâm thời. Vào chiều ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945, trên đường ra Hà Nội, Phạm Khắc Hòe cùng với vua Bảo Đại, lúc này đã là công dân Vĩnh Thụy có dừng nghỉ ở Đèo Ngang, nghĩ tới câu “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” mà Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khuyên nhủ Tiên chúa Nguyễn Hoàng vào năm 1558, cựu hoàng Bảo Đại đã rất bùi ngùi, xúc động, có phần buồn bã, luyến tiếc về một triều đại đã qua. Dọc đường qua địa phận Hà Tĩnh, dù xóm làng còn nghèo nhưng thấy khắp nơi đều treo cờ hoa đỏ thắm, biết xe của Vĩnh Thụy đi qua, người dân đều hô vang “Hoan hô Cố vấn Vĩnh Thụy”, “Hoan hô đồng chí Vĩnh Thụy”, nên làm cho Vĩnh Thụy dần vui lên. Đến cuối giờ chiều, đoàn ghé thăm Tòa sứ Hà Tĩnh cũ, nay là địa điểm đặt Trụ sở của Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh và được đón tiếp cực kỳ niềm nở, chân tình.
Nguyên Đổng lý văn phòng Bộ Nội vụ Phạm Khắc Hòe (người đi sau Bác Hồ)
trong một chuyến đi Pháp. Ảnh: dantri.com.vn
Sau khi cùng với Cố vấn Vĩnh Thụy ra Hà Nội, Phạm Khắc Hòe đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Hoàng Minh Giám gặp gỡ, đón tiếp ân cần, được bố trí làm việc ở Bộ Nội vụ.
Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, tháng 12 năm 1946, Phạm Khắc Hoè đã không kịp ra vùng tản cư nên bị quân Pháp bắt giam ở Hỏa Lò, cùng với Hoàng Xuân Hãn và một số nhân sĩ, trí thức lúc bấy giờ. Ở Hỏa Lò được hơn một tháng thì thực dân Pháp đưa ông vào Sài Gòn, dùng thủ đoạn lôi kéo, mua chuộc ông đi theo chúng, chia rẽ ông với chính phủ Hồ Chí Minh. Tuy nhiên ông đã khôn khéo từ chối và tìm mọi cách để trở về hoạt động cách mạng. Trong thời gian này, Phạm Khắc Hòe có trở lại Đà Lạt, thăm “ấp Nghệ Tĩnh”… Sau gần 3 tháng “giam lỏng” ông ở Sài Gòn nhưng không thể làm được gì, đến tháng 4 năm 1947, thực dân Pháp buộc phải đưa ông trở lại Hà Nội.
Tháng 8 năm 1947, Phạm Khắc Hoè ra vùng tự do và trở lại công tác ở Bộ Nội vụ, kinh qua các chức vụ: Giám đốc Nha Pháp chính, Đổng lí Văn phòng Bộ Nội vụ, cố vấn kiêm Tổng Thư kí Phái đoàn Chính phủ Việt Nam tại Hội nghị đàm phán với Pháp ở Đà Lạt và ở Fontainebleau (Pháp). Từ tháng 12 năm 1957, ông giữ chức Vụ trưởng Vụ Pháp chế Phủ Thủ tướng cho đến khi về hưu (tháng 10 năm 1964). Ngoài ra, ông còn là Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (từ năm 1961), Hội viên Hội Luật gia Việt Nam.
Cùng với các hoạt động chính trị, Phạm Khắc Hòe còn viết văn, làm thơ. Ông có hai tác phẩm nổi tiếng là Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc, Kể chụyện vua quan nhà Nguyễn; một số tập trường ca như Quà chiến khu, Ơn Đảng, ơn Bác muôn đời...
Sau năm 1975, Phạm Khắc Hoè có trở lại thăm “Ấp Nghệ Tĩnh”, người dân trong ấp đã đón tiếp ông vô cùng nồng hậu, chân tình. Họ đã đề nghị ông ở lại đây an dưỡng tuổi già. Tuy nhiên, vì gia đình nên ông đã không thể đáp ứng lòng mong mỏi của bà con Nhân dân nơi đây. Năm 1995, khi nghe tin Phạm Khăc Hoè mất, người dân “Ấp Nghệ Tĩnh” đã tổ chức lễ truy điệu và thờ ông tại đình ấp. Năm 2008, đình Nghệ Tĩnh (thuộc ấp Nghệ Tĩnh) được công nhận là Di tích Lịch sử - văn hoá cấp tỉnh. Phạm Khắc Hòe được phối thờ như một Thành hoàng làng ở đình Nghệ Tĩnh.
Với những công lao cống hiến của mình, Phạm Khắc Hoè được Nhà nước ta tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Bảng vàng Danh dự (có ba con trai tòng quân), Huy chương vì Sự nghiệp Đoàn kết Dân tộc. Ngày 17/7/2021, HĐND tỉnh Hà Tĩnh đã ban hành Nghị quyết số 21/NQ-HĐND về việc đặt tên một số tuyến đường phố tại các huyện Đức Thọ, Can Lộc, Nghi Xuân, Lộc Hà, trong đó, tại thị trấn Đức Thọ, huyện Đức Thọ đã có một tuyến đường mang tên Phạm Khắc Hòe.
Kỷ niệm 190 năm Thành lập tỉnh, 30 năm tái lập tỉnh Hà Tĩnh trong hoàn cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, không thể tổ chức các hoạt động lớn, nhưng đây cũng là dịp để chúng ta nhìn nhận lại, tri ân đối với những người đã có nhiều công lao, đóng góp cho lịch sử nước nhà, trong đó có cụ Phạm Khắc Hòe.
Với Phạm Khắc Hòe thì dù sống và phục vụ trong chế độ nào (cũ - mới, Phong kiến - Xã hội chủ nghĩa) thì trong ông vẫn luôn sắt son một tấm lòng, tất cả vì Tổ quốc, vì Nhân dân./.
Chú thích:
[1] Nghiêm Nghị - Quê ở Đức Thọ, Hà Tĩnh, khi hoạt động cách mạng đổi tên là Nguyễn Chí Điềm
Tài liệu tham khảo
1. Phạm Khắc Hòe (1983), Từ Triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc, Nxb Hà Nội.
2. Phạm Khắc Hòe (2011), Kể chuyện vua quan Nhà Nguyễn, Nxb Thuận Hóa, Huế.
3. Huyện ủy, HĐND, UBND huyện Đức Thọ (2015), Đất và người Đức Thọ, Nxb Đại học Vinh, Nghệ An.
4. Lê Nguyễn (2018), Nhà Nguyễn và những vấn đề lịch sử, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
5. Viện Sử học (2017), Lịch sử Việt Nam, Tập 10, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.