Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Di tích nhà thờ Tiến sĩ Trương Quang Trạch thuộc thôn Đông Đài, xã Thạch Đài, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Thời Lê thuộc làng Thượng, xã Tôn Lỗ, tổng Thượng Nhất, phủ Thạch Hà, trấn Nghệ An. Thời Nguyễn thuộc xã Đông Lỗ, bao gồm làng Thượng có miếu làng Thượng thờ Tiến sĩ Trương Quang Trạch.
Trải qua gần 4 thế kỷ, với những thăng trầm của lịch sử, tài liệu sắc phong, câu đối nhà vua ban cho Tiến sĩ Trương Quang Trạch không còn nữa. Gia phả họ Trương Quang, xã Thạch Đài, huyện Thạch Hà ghi lại thân thế và sự nghiệp của ông còn ít ỏi. Tuy nhiên, nghiên cứu văn bia Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội, sách Các nhà khoa bảng Hà Tĩnh (Hội VHNT Hà Tĩnh, năm 2004), Thái Kim Đỉnh biên soạn), Từ điển Hà Tĩnh (Bùi Thiết chủ biên Sở VHTT Hà Tĩnh, năm 2000), Lịch sử giáo dục Hà Tĩnh (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội, năm 2005) cùng tư liệu điền dã, cho thấy: Kỳ thi năm Canh Tuất, niên hiệu Cảnh Trị thứ 8 (1670) đời vua Lê Huyền Tông, Trương Quang Trạch thi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, được ghi danh vào bia số 45, Văn miếu Quốc Tử Giám Hà Nội. Sau khi đỗ tiến sĩ, ông ra làm quan Bố chánh tỉnh Thanh Hóa, rồi về triều đình làm Đề chế giám sát Ngự sử dưới chế độ vua Lê - chúa Trịnh, sau đó làm Đốc trấn Cao Bằng.
Nhà thờ Tiến sĩ Trương Quang Trạch
Trương Quang Trạch sinh ngày 23 tháng 6 âm lịch năm 1640. Lớn lên trong một gia đình nhà Nho tại thôn Thượng, xã Đông Lỗ, tổng Thượng Nhất, phủ Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh (một phần xã Thạch Đài và xã Thạch Linh ngày nay). Thân phụ ông là người học giỏi, hiểu biết nhiều, đỗ đạt cao, được vua vời ra làm Giám sát Thủ vệ lại nên nhân dân còn gọi là "Quan viên phụ". Thân mẫu là người phụ nữ hiền từ, trung hậu một mực nuôi chồng, nuôi con ăn học thành tài; quê xã Đông Lỗ, thuộc dòng họ Nguyễn Văn, là chị em ruột với bà "Quan quận công" (hiện nay có đền thờ tại xóm Nhật Tiến, xã Thạch Linh). Vợ chồng Quan viên phụ sinh ra 3 người con học hành đầy đủ. Người con thứ hai, thứ ba Trương Quang Khoa và Trương Quang Quý đều đỗ Cử nhân.
Thủa nhỏ, Trương Quang Trạch hiếu học, thông minh và học giỏi. Trong thời gian học ở trường thường được thầy giáo chỉ định giảng lại các bài ôn tập chương, quyển cho bạn cùng lớp hoặc tại các kỳ thi thường giúp các sĩ tử phương pháp làm quyển trước lúc vào thi.
Nhờ thông minh, hiếu học và học giỏi nên 20 tuổi, Trương Quang Trạch thi đỗ Cử nhân. 30 tuổi thi đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân và ghi danh trên văn bia Văn miếu Quốc Tử Giám Hà Nội.
Sau khi đỗ Tiến sĩ, ông được vời ra làm quan Bố chánh tỉnh Thanh Hóa, rồi về triều đình làm Đề chế Giám sát Ngự sử, chức quan can gián vua. Ngự sử Trương Quang Trạch suốt thời gian làm quan với đức tính trung thực, cương nghị và khảng khái luôn giữ khí tiết nhà Nho chân chính: Trung quân, ái quốc, thấu tình dân. Ông thường phê phán các quan tham, nịnh thần mượn con đường khoa cử làm lối tắt làm quan mưu lợi cho riêng mình, quên việc dân, việc nước. Sống dưới chế độ phong kiến vua Lê - chúa Trịnh thối nát, Trương Quang Trạch bị dèm pha, ganh ghét. Ông bị đẩy làm quan Đốc trấn tỉnh Cao Bằng dẹp giặc. Tại đây, bọn nịnh thần bày mưu hảm hại ông, bằng cách đưa mỹ nữ và doanh trại đóng quân làm lung lạc tinh thần binh lính, rồi thông báo về triều đình vu khống ông làm chuyện đó. Sau chuyện này, Trương Quang Trạch bị cách chức. Bị vụ oan, ông quá tức giận mà chết năm 1677, lúc 37 tuổi.
Học rộng, đỗ đạt cao và làm làm quan của Tiến sĩ Trương Quang Trạch lưu tiếng thơm, là niềm tự hào làm rạng danh gia đình, dòng họ và cả xã Đông Lỗ, góp phần biến nơi đầy thành vùng đất văn hiến, hiếu học. Vì vậy ngày xưa có câu chữ Hán truyền tụng đến ngày nay:"Đông Lỗ văn hiến chi địa dã", có nghĩa Đông Lỗ là đất văn hiến.
Dân gian ca ngợi ông:
"Họ Trương Quang có một đấng anh minh
Trí tuệ uyên thâm, tinh thần cảm khái
Chốn quan trường chẳng ngại đấu tranh
Vạch lũ quan tham, phò vua giúp nước
Cứu dân lành trong những bước lưu ly
Bia đá khắc ghi dân gian truyền tụng".
Sau khi mất một thời gian, xét thấy công lao Trương Quang Trạch, nhà vua ban sắc phong thần, nhân dân lập miếu làng Thượng và dòng họ lập riêng bàn thờ bên cạnh bàn thờ tổ, hàng năm vừa tế tổ, vừa tế ông. Dân làng hiến đất ở xứ Đồng Quan, xứ Mộ Đá Tiên, xứ Cồn Nhòi làm ruộng công điền, lấy hoa lợi tế lễ.
Theo truyền thống, nhân dân và con cháu họ Trương Quang lấy ngày 23 tháng 6 âm lịch hàng năm tổ chức lễ hội Quan Nghè Trương Quang Trạch.
Hàng năm, làng Thượng lấy ngày 15 tháng 6 âm lịch làm ngày lễ hội của làng, rước sắc phong của ông từ nhà người phụng sắc đến miếu làng Thượng làm lễ tế "Kỳ phúc lục ngoạt" của xã Đông Lỗ. Từ nhà người phụng sắc, sắc rước lên miếu làng Thượng lễ tế Quan Nghè tà sáng đến 11 giờ trưa. Người phụng sắc thay đổi ba năm một lần, là người cao tuổi, uy tín với dân làng. Hòm sắc đặt trên kiệu với tám người khiêng, đi xung quanh là tám cây lọng. Dọc đường đi trống dóng, cờ mở. Mọi người, mọi nhà lo ăn quần áo đẹp rước sắc.
Cứ ba năm một lần, lễ rước sắc từ miếu các làng thuộc xã Tông Lỗ (Đông Lỗ), Hà Hoàng, Hoàng Cần, Hương Bộc, Ngụy Dương, Trúc Võng, tổng Thượng Nhất lên miếu đình Trung đặt dưới sự điều hành của chánh tổng và các bậc tiên tri trong tổng. Lễ rước này còn gọi là lễ rước sắc hội đồng.
Di tích Tiến sĩ Trương Quang Trạch hoành về hướng Tây Nam, xung quan là nhà ở của dân thôn Đông Đài bao bọc. Di tích gồm cổng vào, nhà thờ Tiến sĩ Trương Quang Trạch.
Cổng vào là hai cột nanh nằm cách nhau 1,70m. Cột hình trụ vuông tiết diện 0,35m x 0,35m, cao 1,80m, đầu cột gắn nghê sứ chầu, xung quanh xây tường bao quanh di tích.
Nhà thờ Tiến sĩ Trương Quang Trạch có diện tích mặt bằng 9,30m2, cao 3,20m, phía trước trổ cửa ra vào rộng 0,95m, cao 1,90m, xung quanh xây tường bao bọc dày 0,15m vừa có chức năng che chắn, vừa có chức năng chịu lực. Toàn bộ công trình màu vàng nhạt. Nền lát gạch hoa trang trí màu vàng, nhẵn bóng.
Hệ mái gồm 8 mái, chia làm 2 tầng, tầng trên nhỏ hơn tầng dưới. Mái đổ bê tông cốt thép, bên trên ngắn ngói vảy đất nung. Trên các bờ mái gắn trang trí các con kìm nguýnh. Giữa thượng ốc trang trí hổ phù đội mặt nguyệt. Phía trước nhà thờ có 2 trụ tròn đường kính 0,15m, trang trí rồng cuộn quấn quanh từ trên xuống dưới theo phong cách thời Nguyễn chống lấy mái.
Về bố trí nội thất, phần không gian giữa nhà thờ là nơi để bàn thờ Tiến sĩ Trương Quang Trạch. Bàn thờ xây cao 0,65m, rộng 0,85m, phía trên bố trí long ngai, bài vị sơn son thếp vàng, cọc đèn cầy, lư hương, đôi chm hạc, khay có chân, nậm rượu… Hai bên bàn thờ đặt đôi câu đối bằng chữ Hán:
Nguyên văn:
祖功宗德千年盛
子孝孫賢萬大榮
Phiên âm:
Tổ công, tôn đức thiên niên thịnh
Tử hiếu, tôn hiền vạn đại vinh
Dịch nghĩa:
Tổ tiên công đức muôn đời thịnh vượng
Con cháu hiếu hiền mãi mãi vinh hiển.
Bên trên bàn thờ đặt bức hoành phi bằng chữ Hán:德流 光, phiên âm Đức lưu quang, dịch là Đức sáng mãi./.