Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Phúc thần Nguyễn Văn Chất là một võ tướng tâm phúc của Đại Nguyên soái Thượng sư Thái phụ Tây Quốc công Trịnh Tráng. Ông từng lập được nhiều chiến công trong việc đánh tan bọn giặc Tàu Ô xâm nhập quấy phá vùng biển miền Trung nước ta. Được triều đình phong chức Đề đốc, đặc tiến Tán trị công thần Phụ quốc Thượng Tướng quân, Điện Tiền đồ hiệu điểm tỵ công thần; đặc tiến Phụ quốc hiệu điểm ty, tạ hiệu điểm Trung Quận Công vì có công giúp vua giữ nước.
Sau khi mất ngày 08 tháng 02 năm Mậu Ngọ (1648), đời vua Lê Chân Tông, triều đình vô cùng thương tiếc một võ tướng tài ba, trung nghĩa liền ban dân lập miếu thờ ngay cạnh sông Đông, trên chính mảnh đất làng Trùa quê hương ông, nay là tổ dân phố Đại Đồng, phường Thạch Linh, thành phố Hà Tĩnh.
Tuổi niên thiếu, ông đã có chí lớn và lòng yêu nước, thương dân, căm ghét quân tham tàn bạo ngược. Với vua với nước thì ông “như bậc phụ giúp nhà Chu, tài giỏi dương danh nhà Hán; đủ cả nhân lễ nghĩa trí tín; thẳng thắn ôn hòa, giản dị cương trực, chẳng thiếu. Đến như Vương phủ thì gần gũi long nhan, ở trong thì bảo vệ mà bên ngoài thì ngăn trở, có nhiều công lao. Phụng quản ba quân, hiệu lệnh nghiêm minh, thủy quân và bộ binh đều giỏi. Tướng sỹ khỏe mạnh, lộc dân thêm nhiều, một mảy may tơ hào không hề tham vướng,…”. Đối với nhân dân ông luôn thể hiện ân đức khoan hòa: “không tăng thuế má, chẳng phải trong ngạch thì không thu….Các hạng tiền gạo dân đinh thì không thu của học trò nghèo, cùng miễn các thuế dịch để chuyên tâm học tập. Còn phát chẩn lương thực cho người nghèo, cho lánh binh thay phiên nhau. Lại cấp tiền để làm nhà ở, hoặc giúp đi trừ giặc cướp, ban cấp tiền hoặc gạo để dùng vào việc hàng ngày. Những ai thiếu thốn, ốm đau thì đem thuốc thang đến để giúp cho”. Lại còn “mở lòng từ, lấy ruộng Tiết phụ là 10 mẫu và ruộng tư 7 mẫu chia đều cho dân các thôn trong bản xã luân lưu cày cấy”.
Với cha mẹ, ông là người con hiếu nghĩa: “Sinh thời luôn gắng làm việc thiện, phụng thờ thân mẫu”.
Miếu Đương Cảnh, phường Thạch Linh, thành phố Hà Tĩnh
Tóm lại, công đức và lòng nhân nghĩa của ông “đã giúp ngăn cản tai ương, ngự chế hoạn nạn, vớt kẻ chết đuối, đỡ người không đứng vững hết sức dụng công”. Vậy nên, năm Vĩnh Trị thứ 3 (1678), nhân dân lập bia suy tôn ông là Phúc thần để nhân dân muôn đời được kế nối thờ tự.
Bia Suy tôn Phúc thần được dựng tại khối phố Nhật Tân, cách miếu Đương Cảnh khoảng 1km về phía đông. Bia được làm bằng chất liệu đá thanh, có hình trụ chữ nhật, kích thước 145cm x 75cm. Hai mặt bên của nội dung bia đá khắc bài “推 尊 福 神 文 記- Suy tôn phúc thần văn kí” nằng chữ Hán, nội dung bài văn bia còn khá rõ với nét chữ khắc chân phương, nét sâu, rõ ràng, bài văn bia do Tiến sỹ, Thượng thư Hồ Sỹ Dương soạn.(1) với nội dung:
* Dịch nghĩa: Bài văn bia suy tôn Phúc thần
Quan viên quý chức, hương sắc, hương lão ở xã Tông Lỗ, huyện Thạch Hà, phủ Hà Hoa gồm Phan Văn Dụ, Nguyễn Tá Hiệp, Nguyễn Văn Đạt, Bùi Hữu Tài, Ngụ Hữu Liêu, Phan Khắc Quế, Nguyễn Cụng Dặc, Bùi Tự Lực, Phan Văn Hi, Nguyễn Phúc Tôn, Nguyễn Hữu Dụng, Trần Viết Cử, Phan Văn Liên, Trương Quang Lánh, Nguyễn Hữu Nguyên, Bùi Tự Khoan, Nguyễn Chân, Phan Văn Nhạ, Nguyễn Phi Miên, Nguyễn Duy Dương, Nguyễn Hữu Độ, Trương Quanh Huy, Hoàng Văn Phòng, Nguyễn Công Đường, Nguyễn Chí Tú, Nguyễn Phúc Hậu, Trương Quang Đội, Nguyễn Trụ, Nguyễn Hữu Sai, Nguyễn Văn Độ, Nguyễn Đình Đỗ, Nguyễn Đăng Tiến, Nguyễn Hữu Tài, Bùi Tự Quế, Phan Viết Minh, cùng toàn xã lớn nhỏ tôn bầu Phúc thần để lưu truyền công đức mãi về sau.
Nay thấy bản xã có Cai quan Đề đốc Trung Lang hầu Nguyễn lệnh công, húy là Văn Chất, như bậc phụ giúp nhà Chu, tài giỏi dương danh nhà Hán; đủ cả nhân lễ nghĩa trí tín; thẳng thắn ôn hòa, giản dị cương trực, chẳng thiếu. Đến như Vương phủ thì gần gũi long nhan, ở trong thì bảo vệ mà bên ngoài thì ngăn trở, có nhiều công lao. Phụng quản ba quân, hiệu lệnh nghiêm minh, thủy quân và bộ binh đều giỏi. Tướng sỹ khỏe mạnh, lộc dân thêm nhiều, một mảy may tơ hào không hề tham vướng, không tăng thuế má, chẳng phải trong ngạch thì không thu. Ân đức khoan hòa của ngài, không hề dừng lại; đến lòng yêu thương người khác đều càng thêm nhiều.
Lễ giỗ Phúc thần Nguyễn Văn Chất
Vào năm Giáp Thìn, phụng lệnh cai quản bản quán, dân ta từ đây về sau, các hạng tiền gạo dân đinh thì không thu của học trò nghèo, cùng miễn các thuế dịch để chuyên tâm học tập. Còn phát chẩn lương thực cho người nghèo, cho lánh binh thay phiên nhau. Lại cấp tiền để làm nhà ở, hoặc giúp đi trừ giặc cướp, ban cấp tiền hoặc gạo để dùng vào việc hàng ngày. Những ai thiếu thốn, ốm đau thì đem thuốc thang đến để giúp cho.
Sinh thời luôn gắng làm việc thiện, phụng thờ thân mẫu, mở lòng từ, lấy ruộng Tiết phụ là 10 mẫu và ruộng tư 7 mẫu chia đều cho dân các thôn trong bản xã luân lưu cày cấy, để dùng vào việc phụng thờ. Đức đó thật là thịnh vậy! Chính điều đó đã giúp ngăn cản tai ương, ngự chế hoạn nạn, vớt kẻ chết đuối, đỡ người không đứng vững hết sức dụng công. Lẽ nào lại không đủ để chay tịnh thân tâm mà được kế nối thờ tự sao? Vời vợi thay, như đang ở trên đó!
Nay từ Phan Dụ đến Phan Viết Minh cùng toàn xã đồng lòng hướng đến, cùng miệng tán dương, mươi mắt cùng nhìn, mươi tay cùng chỉ, nhận cho bản xã 100 quan tiền, cùng chia tiền phúc lợi, tôn bầu Lệnh công làm Phúc thần và Lệnh bà phu nhân họ Nguyễn, húy là Mạo. Lại xin lập nhà thờ Từ chỉ, năm tháng phụng thờ như theo nghi thức. Khiến cho hậu thế nối tiếp thành nghi thức mãi mãi, để hương hỏa ngời ngời đến vô cùng, công đức còn mãi không bao giờ mất, khiến cho dân trong làng luôn ngưỡng vọng. Nay tôn bầu.
Ngày 10 tháng 11 năm Vĩnh Trị thứ 3 (1678), bản xã quan viên các chức Xã trưởng, Hương sắc nhân dân lập việc thờ Thần cùng kí.
Huyện thừa Nguyễn Tá Hiệp, Giám sinh Phan Văn Dụ, Bùi Hữu Tài, Bùi Tự Lực, Nguyễn Phúc Duyên, Tri sự Nguyễn Phi Miên, Nguyễn Phi Duy, Sinh đồ Nguyễn Hữu Đỗ, Trương Quang Huy, Xã trưởng Phan Quang Khiêu, Hương lão Hoàng Văn Phòng, Nguyễn Phúc Hậu, Nguyễn Công Đường, Nguyễn Chí Tú, Phan Trọng, Nguyễn Trụ, Nguyễn Duy Thám, Trương Quang, Bùi Quang (?), Bùi Sách, Nguyễn Sinh Dân, Đỗ Tự Trụ, Phan Đại, Nguyễn Đăng Tiến, Phạm Duy Đôi, Nguyễn Hữu Tài, Nguyễn Lai, Trần Hạnh, Trương Công Bình, Nguyễn Phúc Thuyền, Nguyễn Thị Thế, Nguyễn Phúc Lộc, Bùi Tự Hồng, Phạm Duy”.
Để ghi nhớ công lao của Trung Quận công Nguyễn Văn Chất, cũng như sự linh thiêng của miếu Đương Cảnh, các triều đại phong kiến nhiều lần phong sắc “Thượng đẳng Phúc thần” và sức cho nhân dân trong vùng phụng thờ hương khói. Năm 2018, miếu được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh theo Quyết định số 3788/QĐ-UBND ngày 14/12/2018 của UBND tỉnh Hà Tĩnh.
Chú thích:
(1).Tiến Sỹ Hồ Sỹ Dương (1621- 1681) người xã Hoàn Hậu- huyện Quỳnh Lưu- Nghệ An. Ông đỗ Tiến sỹ khoa Nhâm Thìn năm Khánh Đức 4 (1652), lại đỗ Nhị danh khoa Đông các năm Kỷ Hợi niên hiệu Vĩnh Thọ 2 (1659), làm quan đến chức Thượng Thư, tước Duệ Quận công. Ông là một nhà trước tác có tầm cỡ trong nước thời bấy giờ. Bài văn bia này đã được dập, phiên âm, dịch nghĩa trong cuốn “Văn Bia Hà Tĩnh”- Sở VHTT Hà Tĩnh xuất bản năm 2007.