Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Bàn về những ngôi đền thờ nổi tiếng trên đất Hà Tĩnh thì đền Chiêu Trưng là một trong bốn ngôi đền đẹp của xứ An Tĩnh xưa “đền Cờn, đền Quả, Bạch Mã, Chiêu Trưng”. Nhưng nói đến lễ hội thì lễ hội đền Chiêu Trưng lại là lễ hội lớn vào loại bậc nhất ở đây, hàng năm đều được tổ chức với quy mô, hình thức và số lượng người tham gia đông đảo và mang đậm nét truyền thống.
Lê Khôi là một danh nhân lịch sử, dũng tướng thời Hậu Lê. Ông nội là Lê Khoáng sinh được 3 người con trai lần lượt là Lê Học, Lê Trừ và Lê Lợi. Lê Trừ sinh được 3 người con trai là Lê Khôi, Lê Khang và Lê Khiêm. Như vậy, Lê Khôi là cháu gọi vua Lê Lợi bằng chú.
Lê Khôi là một trong những người đầu tiên tham gia nghĩa quân Lam Sơn, có công lớn trong sự nghiệp đánh đuổi giặc Minh giành lại độc lập, sau đó làm quan trải qua ba đời vua đầu tiên của triều Lê sơ, đứng vào hàng ngũ khai quốc công thần. Năm Thái Hòa thứ 4 (1446), Lê Khôi đang đóng quân trấn giữ trấn Nghệ An được lệnh đem quân bản bộ cùng tướng Lê Khả tiến đánh vào đất Chiêm Thành. Sau khi đánh thắng giặc Chiêm trở về, đến vùng biển dưới chân dãy núi Nam Giới vùng biển Cửa Sót thì bị bệnh nặng và mất tại đây. Tương truyền quân lính đưa linh cữu ông khi tới núi Long Ngâm nghỉ chân thì có một đàn mối đông nghịt đã phủ lên thi thể ông tạo thành một ngôi mộ. Năm Quang Thuận thứ 4 (1463) triều vua Lê Thánh Tông, vua cho dựng bia, lập đền thờ. Năm Hồng Đức thứ 18 (1487), ông được gia phong Chiêu Trưng Đại Vương và hàng năm tế lễ theo nghi thức quốc tế vào ngày mùng 3 tháng 5 âm lịch, lại giao cho dân địa phương các làng Mai Phụ, Vĩnh Tuy, Kim Đôi phụ trách thờ phụng, cúng tế. Ngày nay, các địa phương trên thuộc về các xã Mai Phụ, Thạch Kim, Thạch Bàn và Thạch Hải.
Nguyên xưa khi phân chia địa giới hành chính thường dựa vào địa phận cư trú và theo địa giới đồng ruộng. Dãy Nam Giới, trong đó có đỉnh Long Ngâm khi đó không thuộc phạm vi quản lí của làng xã nào, nên đền thờ ngài ở đây cũng là của chung các xã lân cận. Triều đình có chiếu lệnh các làng hợp sức xây đền thờ, làng Mai Phụ xây gian thượng điện, làng Kim Đôi xây trung điện và làng Vĩnh Tuy xây hạ điện. Khi chiến tranh xảy ra, người làng Mai Phụ đem di vật của Ngài gồm cân đai, áo mũ, bảo kiếm và đôi hia về cất giấu ở làng mình. Vì có công như vậy nên về sau, làng Mai Phụ được tôn làm xã cả, thường đi đầu trong đội cúng tế ở đền chính. Làng Vĩnh Tuy sau hợp lại với làng Mai Phụ, thành xã Mai Phụ ngày nay. Làng Kim Đôi (Thạch Kim) có công xây dựng đền, góp phần bảo vệ đền, được tôn là xã thứ, mà theo các cụ vẫn gọi là anh hai. Hai xã này đã rước bát hương của Ngài từ đền chính về thờ vọng tại làng mình để nhân dân thuận tiện cúng bái và tôn Ngài làm thành hoàng làng. Xã Thạch Bàn mãi về sau mới được thành lập theo chương trình chia tách hai huyện Thạch Hà và Lộc Hà, trở thành nơi quản lý hành chính đối với đền, cũng rước bát hương của Ngài về thờ vọng tại đền Nước Lạt. Riêng xã Thạch Hải vốn có đền thờ Ngài từ trước là đền Dương Luật, mãi về sau khi có kế hoạch hợp tự các xã về đền chính làm lễ mới tham gia vào đội hình đoàn rước. Như vậy, sẽ có 4 xã tham gia vào đội rước lễ hàng năm về đền chính. Đây chính là nét đặc sắc, độc đáo của lễ hội đền Chiêu Trưng. Trải qua thời gian hơn nửa thiên niên kỷ (1446- 2021), với những trầm tích lịch sử, tín ngưỡng và sự tôn thờ lắng đọng trong từng nghi thức tế lễ, từng trò diễn dân gian, đã khiến cho lễ hội đền Chiêu Trưng trở thành một hiện tượng văn hóa dân gian có sức thu hút lôi cuốn nhiều thế hệ con người ở nhiều nơi trên cả nước. Ngày 3 tháng 5 âm lịch hàng năm trở thành ngày tưởng niệm vị danh tướng tài ba, đồng thời theo thời gian đã trở thành một lễ hội lớn ở Hà Tĩnh.
Theo tục lệ, lễ tế sẽ kéo dài trong ba ngày từ ngày mồng 01 đến ngày mồng 03 tháng 5 âm lịch. Song từ trước đó mấy ngày, tại các đền thờ vọng đã bắt đầu các hoạt động mở đền thắp hương cho nhân dân địa phương và du khách, cùng với tổ chức các trò chơi tập thể ngoài trời như trò chơi dân gian, thể thao, văn nghệ. Về mặt hành chính, lễ hội sẽ tổ chức ở bốn xã là Mai Phụ, Thạch Kim, Thạch Bàn, Thạch Hải; còn về không gian văn hóa của lễ hội lại diễn ra tại 8 ngôi đền khác nhau: đền thờ chính ở núi Long Ngâm, 4 ngôi đền ở các xã Mai Phụ, Thạch Kim, Thạch Bàn, Thạch Hải và hai ngôi đền Thánh Mẫu (đền Bà Chúa), đền Ngư Ông trên dãy núi Long Ngâm. Trong không gian văn hóa trải rộng ấy, thời gian lễ hội cũng kéo dài hơn, vượt qua ba ngày lễ, kéo ngược về tận ngày 27, 28 tháng 4 cho đến hết ngày mùng 03 tháng 5 âm lịch.
Lễ tế trong lễ hội đền Chiêu Trưng
Bắt đầu từ ngày 27 tháng 4 âm lịch, tại các đền thờ vọng đã tổ chức cho dân chúng đến thắp hương cúng bái. Xã Thạch Kim thường tổ chức bắt đầu từ tối ngày 27 tháng 4 với các hội đánh tôm điếm, hội đánh cờ thẻ. Xã Thạch Bàn tổ chức các trò chơi thể thao ngoài trời. Buổi tối tổ chức hát ví, hát chầu văn. Xã Mai Phụ tổ chức chơi thể thao…
Vào ngày 30 tháng 4 âm lịch, ban lễ nghi các đền đến đền chính xin được làm lễ “Sái tảo” và lễ “Mộc dục”.
Lễ “Sái tảo”: Lễ cúng gồm 5 cơi trầu, hương và rượu được đặt ở thượng điện, trung điện, hạ điện, lăng mộ và miếu Bà Chúa ở cổng đền. Lễ có ý nghĩa mời Đức Thánh Chiêu Trưng cùng Nhị vị (Nhị vị chính là Thánh Mẫu và Ông Ngư) tạm rời vị trí để lau rửa đồ thờ, quét dọn trong ngoài đền sạch sẽ. Xong việc lại khấn mời về an tọa.
Lễ “Mộc dục”: tiến hành vào buổi chiều ngày 30 tháng 4 âm lịch. Lễ vật gồm 5 cơi trầu, hương và rượu. Lễ mang ý nghĩa dâng báo Đức Thánh xin được khai hội và làm lễ tắm tượng (Mộc dục). Lễ Mộc dục được tiến hành như sau: Ban lễ nghi dùng 1,5m vải đỏ mới, lại lấy nước ở khe Hau Hau (khe nước này chảy từ trên núi xuống, nước rất trong và mát, ở gần với đền chính) đem sắc cùng nước ngũ vị. Dùng vải đỏ chia làm ba phần đem giặt trong nước đã sắc này lau từng phần của tượng. Nghi thức này gọi là “Dội tượng”. Những người dội tượng nằm trong ban lễ nghi, phải xin phép Đức Thánh bằng cách xin quẻ âm dương mới được làm. Nước “Dội tượng” sau khi làm xong thường được người dân xin về tắm rửa cho trẻ con với mong cầu may mắn, mạnh khỏe. Vải lau tượng được Ban lễ nghi giữ lại một phần, dùng để ban phát cho những ai đến cầu yên, cầu may như một lá bùa hộ mệnh của Đức Thánh; phần vải còn lại được chia cho ngư dân làm dấu bùa treo ở mai thuyền, đem theo sự che chở của Đức Thánh mỗi khi ra khơi.
Lễ chính sẽ diễn ra từ ngày mùng 01 tháng 5 âm lịch. Vào đúng 8 giờ sáng ngày mùng 01, ban lễ nghi chuẩn bị một mâm xôi gà lên xin được khai hội và mời Đức Thánh về, đồng thời báo cáo kế hoạch lễ rước. Thông thường đoàn rước sẽ có khoảng 150 người, trong đó có 5 kiệu, mỗi kiệu có 30 người ở các vị trí: cờ thần, cờ hiệu, lọng và ô, người gồng kiệu, người cầm giải, người khiêng và đánh trống, người đánh xập xèng, đội nhạc khí. Ngoài ra có 40 cờ ngũ hành cắm ở những nơi thuộc trung tâm các xã và mang theo đoàn rước. Đoàn rước của xã Mai Phụ thường có một đội rước 10 người mặc áo màu vàng nẹp giải đỏ, đầu đội mũ sơn, cầm thương, đao, giáo mô phỏng lính tráng thời xưa đi đầu đoàn rước, tiếp theo là kiệu rước cân đai áo mũ của Đức Thánh. Đoàn rước xã Thạch Kim và Thạch Hải thường có đội múa lân, múa sư tử. Đoàn rước Mai Phụ cũng rước theo một thuyền mô hình với đầy đủ hình người và đồ vật sinh hoạt, thuyền này khi rước đến chân núi Long Ngâm được đem ra làm lễ và thả ngoài khơi xa. Đoàn rước Thạch Bàn theo tục lệ rước một đôi ngựa, mô phỏng ngựa chiến của Đức Thánh. Phần lễ rước này thường kéo dài khoảng 2 giờ. Riêng đoàn rước Thạch Hải vì không tiện đi đường biển sang nên họ rước bằng đường bộ.
Lễ rước kiệu trong lễ hội đền Chiêu Trưng
Ngày mùng 02, các đoàn rước từ các đền thờ vọng sẽ tiến về đền chính. Từ 8 giờ sáng các đoàn rước ở các đền thờ vọng sẽ tiến về đền thờ chính để cùng làm lễ. Trước kia quá trình làm lễ rước như sau:
- Chặng thứ nhất: điểm xuất phát của lễ rước được bắt đầu từ các đền thờ vọng của ba xã Mai Phụ, Thạch Kim, Thạch Bàn cùng với đền Thánh Mẫu và đền Ngư Ông đều rước bằng thuyền tập trung về đền thờ vọng ở xã Mai Phụ (xã cả), dạo ba vòng trước đền Mai Lâm (Mai Phụ) để đón.
- Chặng thứ hai: đoàn rước tiến về đền chính. Tới chân đền chính, đoàn rước dạo ba vòng trước cổng đền chính (gọi là lễ chào). Sau đó, đoàn rước chuyển từ thuyền lên rước bộ. Lúc này trước cổng đền chính, ban lễ nghi do chủ tế đứng đầu đã đứng đón sẵn, sắp xếp các đoàn rước vào theo thứ tự trước sân đền, đầu tiên là xã Mai Phụ, đến Thạch Kim, Thạch Bàn và Thạch Hải.
- Chặng thứ ba: diễn ra vào đầu giờ chiều. Sau khi các nghi lễ hoàn tất, các đoàn rước lại rước bát hương thờ vọng trở về đền vọng các xã. Thứ tự rời đi cũng giống như lúc rước đến. Mỗi đoàn rước trở về đền thờ vọng tiếp tục các nghi thức tế lễ mời Đức Thánh trở về, các trò chơi vẫn tiếp tục cho đến hết ngày mùng 03.
Ngày nay, trình tự rước Đức Thánh như trên đã có thay đổi. Bởi sự lên xuống của thủy triều trong ngày, những xã rước bằng thuyền phải phụ thuộc vào con nước nên không chủ động được thời gian như ngày trước. Do đó các đoàn rước bây giờ trực tiếp tiến thẳng đến đền chính, sau khi dạo ba vòng làm lễ chào trước cửa đền thì rước bộ lên đền. Tuy nhiên, vị trí khi hạ kiệu trước sân đền và thứ tự lúc ra về vẫn giữ nguyên như xưa nay.
Chiều ngày mùng 02 tháng 5 là lễ Yết (còn gọi là giỗ tiền thường- phiên thường). Lễ diễn ra từ 14 giờ đến 16 giờ, trải qua 3 tuần hương, do ban lễ nghi, đứng đầu là chủ tế phụ trách. Ban lễ nghi gồm 13 người, phụ trách 18 vị trí từ thượng điện đến hạ điện. Mười tám vị trí thực hiện nghi lễ gồm: đại cổ, đại ching, chủ tế (Mạnh), bồi tả, bồi hữu, tiểu chinh, tiểu cổ, đội nhạc sinh, điển, đọc, bổng đăng, giáng hương, thượng hương, tiền tước, giáng chúc, quân hiến, giáng phước (có người kiêm 2, 3 vị trí trong lúc làm lễ). Các trình tự và hành động được thống nhất với nhau, chính xác đến từng động tác. Sau khi hoàn tất nghi lễ, lãnh đạo các cấp chính quyền, lãnh đạo bốn xã thờ vọng và nhân dân quanh vùng đến thắp hương, mời ngài ngày mai về dự lễ.
Ngày mùng 3 là ngày chính kỵ. Lễ nghi, lễ vật và trình tự diễn ra tương tự lễ Yết. Đến khoảng 2 giờ chiều cùng ngày các đoàn rước quay trở về đền thờ vọng của xã mình, tiếp tục hoàn tất các nghi lễ cúng bái mời Đức Thánh về lại.
Hội đền Chiêu Trưng cũng diễn ra đồng thời với phần lễ. Trước ngày chính lễ, tại các đền thờ vọng, nhân dân đã tổ chức các trò chơi tập thể và văn nghệ dân gian. Ngày trước là các trò chơi dân gian như đánh cờ thẻ, cờ người, cờ bỏi, đặc biệt là cuộc thi chèo bơi, một hoạt động tưởng nhớ đến chiến tích của đội quân của Lê Khôi, cũng là hình ảnh đặc trưng của cư dân miền biển.
Cuộc thi thường được khai mạc vào sáng ngày mùng 01 trước đền chính, bắt đầu thi vào chiều ngày mùng 02, cứ 3 năm tổ chức một lần với quy mô lớn, các năm khác thì tùy thuộc vào điều kiện của từng xã. Có những năm cuộc thi thu hút nhiều xã như Thạch Kim, Thạch Hải, Thạch Bàn, Mai Phụ, Thạch Sơn, Thạch Bằng, Hộ Độ, Thạch Đỉnh. Khi ấy các đội thuyền chen chật kín mặt cửa sông, trên bờ người người tụ tập hò la cổ vũ nhiệt tình. Hiện vẫn lưu hành bài vè cổ vũ:
“Mấy khi ba xã hội đồng
Trên phụng nghi Đức Thánh
Dưới thuyền rồng chèo bơi
Dô hò! Là dô hò là hò dô hò!”
Thuyền dự thi được trang trí kiểu thuyền rồng, mỗi thuyền có 17 người: 14 tay chèo, một người cầm lái, một người chỉ huy, một người bắt nhịp. Các tay chèo đều để mình trần, đầu chít khăn màu. Khoảng cách đường bơi thường từ 500 đến 800m, được giới hạn bởi hai phao nổi hai đầu. Thông thường một cuộc thi, các thuyền phải bơi ba vòng qua lại giữa hai đầu, thuyền nào về đích đầu tiên thì giật giải. Trong quá trình cuộc thi diễn ra, người ta sẽ cảm nhận được tráng khí hào hùng, nhiệt huyết của các tay chèo, và cả làn sóng cổ vũ của người xem. Tất cả hòa quyện vào nhau, tạo nên một không khí hoành tráng bên bờ cửa Sót, nơi khi xưa đoàn quân thắng trận trở về đã dừng chân.
Không khí náo nhiệt ấy được tiếp nối tới tận đêm khuya với các hoạt động văn hóa, văn nghệ: ngâm thơ, hát ví dặm, hát chầu văn. Từng tốp nam nữ tổ chức hát đối đáp, hoặc tốp này hát đối với tốp khác, hoặc trên núi hát đối với dưới thuyền, hoặc giữa các thuyền hát đối nhau, nội dung chủ yếu xoay quanh tình yêu quê hương, tình yêu con người, không khí vừa sôi nổi, bạo dạn lại vừa có nét e ấp, nhẹ nhàng. Trong đền, tốp các bà, các cô hát các bài ví, bài giặm ca ngợi công đức tổ tiên, công đức của Đức Thánh, tạo một không khí đầm ấm, nghiêm trang. Đêm tổ chức hội văn nghệ, đèn đuốc sáng rực, dòng người đông đúc, vừa thưởng thơ vừa ngoạn cảnh non nước, cứ thế diễn ra tới tận đêm khuya, có khi về sáng vẫn chưa dứt .
Ngày nay, bên cạnh các trò chơi truyền thống, các hoạt động thể dục thể thao hiện đại đã được đưa vào: kéo co, bóng chuyền, văn nghệ đương đại, đan xen vào các hình thức sinh hoạt văn hóa khác như giới thiệu nhân vật lịch sử Lê Khôi, giá trị kiến trúc nghệ thuật của đền, đại diện các nơi thờ tự Lê Khôi ở Thanh Hóa, Hà Nội phát biểu cảm tưởng…Nếu như phần tế lễ vẫn giữ nguyên các nội dung truyền thống thì phần hội đã giao thoa và tiếp nối bởi những yếu tố hiện đại. Đây là xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển lịch sử, tạo nên nguồn mạch văn hóa nối tiếp không ngừng nghỉ.
Hiện nay, Hà Tĩnh có nhiều lễ hội đã và đang được phục hồi, làm cho đời sống tinh thần thêm phong phú. Trong đó, lễ hội đền Chiêu Trưng được xem là lễ hội lớn nhất, được tổ chức bài bản theo đúng lễ nghi truyền thống, thể hiện rõ những nét phong tục, văn hóa của cư dân miền biển. Bên cạnh đó phần hội lại tiếp thu những yếu tố hiện đại mới. Có thể nói, lễ hội đền Chiêu Trưng đã tổng hợp, giao hòa được các yếu tố truyền thống và hiện đại, vừa giữ lại được những phong tục cổ xưa, vừa bổ sung thêm những yếu tố mới phù hợp với nhu cầu của nhân dân hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Các hồ sơ di tích lịch sử văn hóa: Đền thờ và lăng mộ Lê Khôi; Đền Nước Lạt (xã Thạch Bàn), đền Mai Lâm (xã Mai Phụ), đền Đông Phương (xã Thạch Kim) lưu tại Bảo tàng Hà Tĩnh.
2. Thái Kim Đỉnh (2005), Lễ hội dân gian ở Hà Tĩnh, Sở Văn hóa Thông tin Hà Tĩnh.
3. Phan Thư Hiền, Đặng Thị Thúy Hằng, Danh tướng Lê Khôi với quê hương Hà Tĩnh, NXB Văn hóa Thông tin.