Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Đền Hai hay còn gọi là đền Voi Mẹp, hiện nay tọa lạc tại xóm Vĩnh Hội, xã Đức Lĩnh, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dưới triều Nguyễn, xã Đức Lĩnh thuộc tổng Thượng Bồng, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Xã được thành lập thời Minh Mạng, là một trong 50 xã của huyện Hương Sơn, Phủ Đức Quang, châu Nghệ An [1].
Đền Hai hiện nằm ở trung tâm của xã Đức Lĩnh, trên nền đất cao ráo. Đền ngoảnh về hướng Đông Đông Bắc, nơi trước đây con sông Ác giang/Thâm giang chảy qua trước cổng đền. Dòng Thâm giang (sông Ngàn Sâu) bắt nguồn từ dãy Trường Sơn, nằm trên địa bàn giáp ranh của hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình. Sông chảy về hướng Bắc qua huyện Hương Khê, Vũ Quang, Đức Thọ vùng núi Ông Giao Thừa (cao 1.100m) và núi Cũ Lân (cao 1014m) thuộc Hương Sơn đến ngã ba Tam Soa hợp lưu với sông Ngàn Phố tạo thành sông La giang chảy hợp lưu với sông Cả gọi là sông Lam giang rồi đổ ra biển qua cửa Hội. Sông Thâm giang trước đây lắm thác ghềnh rất hiểm trở nhất là vào mùa mưa lũ nhấn chìm một vùng rộng lớn hai bên tả, hữu ngạn, là thách thức lớn đối với người dân sống ở đây.
Vùng Bồng Giang nói riêng và vùng rừng miền núi Vũ Quang nói chung vào khoảng thế kỷ 18-19 là vùng đất âm u, ẩm thấp, nhiều mưa. Cây cỏ, hoa màu, vật nuôi thường bị cuốn trôi vào mùa lũ lụt, gây thiệt hại to lớn cho nhân dân. Cuộc sống con người bị thiên nhiên chi phối. Chính vì vậy, họ lập miếu thờ thủy thần, tin tưởng vào đấng siêu nhiên phù hộ đội trì cho tai qua nạn khỏi, mùa màng tươi tốt, nhân dân yên ổn làm ăn, sinh sống. Và đó không chỉ là nguồn nước uống cho con người, vạn vật mà nước còn gây ra những tai họa khủng khiếp. Nước có thể hủy diệt mọi thứ nhưng đồng thời đánh thức sự hồi sinh. Vì vậy, con người vừa muốn chế ngự, vừa muốn sùng bái nó. Đền Hai khởi thủy là như thế. Qua thời gian, nhu cầu tín ngưỡng thờ thủy thần càng lớn. Việc tôn tạo mở rộng di tích càng được đặt ra và đền Hai từ ngôi miếu nhỏ đã mở rộng thành ngôi đền với quy mô ngày càng lớn.
Đền Hai hiện chưa biết khởi dựng từ khi nào nhưng theo dòng lạc khoản bằng chữ Hán trước đây trên dạ thượng lương của thượng điện ngôi đền có ghi thời gian đền được tôn tạo: 嗣 德 癸 丑 孟 夏 經 始 中 秋 完 成, Tự Đức Quý Sửu, mạnh hạ kinh thủy trọng thu hoàn thành (Khởi công vào tháng 4, hoàn thành vào tháng 8 năm Quý Sửu niên hiệu Tự Đức – 1868). Hiện đền còn lưu giữ được tòa gỗ lim được làm vào năm này. Dưới thời phong kiến, các đời vua đã ban sắc phong cho đền giao cho địa phương bảo vệ, hương khói vị thần có công “hộ quốc, tỷ dân”. Qua thời gian và biến thiên của lịch sử, sắc phong bị mất mát, đền Hai bị xuống cấp. Tuy nhiên, theo truyền ngôn, thần tích của đền Hai được các vị cao niên kể lại như sau:
Thửa trước, có một lão nông sống bên bờ sông Thâm giang mưu sinh bằng nghề đánh bắt thủy sản. Một hôm, ông lão đi cất vó. Khi nhấc vó lên, thì vó mắc vào một gốc cây. Ông bèn đập gốc cây ra để lấy vó thì bổng nhiên gốc cây ứa máu. Ông lão sợ hãi và lấy làm lạ. Ông bèn khấn vái nhỏ to cầu mong cho thần linh thứ lỗi vì là người trần mắt thịt đã xâm phạm đến thần linh. Sau đó, ông lão báo với dân làng và dân làng kéo đến dỡ gốc cây lên thì ở phía dưới toàn là cá. Và họ đã đem chia nhau đưa về nhà vì nghĩ đó là lộc trời, lộc của thần linh đã mang ân huệ đến cho dân làng. Biết ơn, dân làng đã lập ngôi miếu (nay là đền Hai) ngay tại chỗ gốc cây lạ đó, hàng năm hương khói cầu mong cho thủy thần phù hộ nhân dân bắt được nhiều tôm cá và chế ngự nước sông Thâm giang thường trút “giận dữ” vào mùa mưa lũ, giúp nhân dân được an cư lạc nghiệp. Như vậy, thần tích của vị thủy thần ở đền Hai nhuốm màu sắc huyền bí, ly kỳ đã làm tăng thêm tính thiêng cho vị thần được thờ ở đây.
Thượng Bồng - Hạ Bồng vào cuối thế kỷ 19 nằm bên tả ngạn sông Ngàn Sâu, dựa lưng vào dãy Trường Sơn, là căn cứ của cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Đình Nguyên Tiến sĩ Phan Đình Phùng lãnh đạo, sau khi nghĩa quân rút khỏi làng Đông Thái (Đức Thọ) và căn cứ Cồn Chùa (Hương Sơn). Thượng Bồng – Hạ Bồng bao gồm các xã Thượng Bồng, Hạ Bồng, Lệ Động, Phương Duệ, Yên Duệ thuộc tổng Thượng Bồng, huyện Hương Sơn và cả các thôn Lâm Thao, Hòa Duyệt thuộc tổng Hương Khê, huyện Hương Khê (nay là các xã Đức Bồng, Đức Lĩnh, Đức Hương, Đức Liên và một phần xã Đức Giang [2]. Đền Hai cùng với đền Lệ Động (xã Đức Lĩnh), đền Phùng (xã Đức Hương) nay thuộc huyện Vũ Quang nằm ở căn cứ Thượng Bồng - Hạ Bồng và là nơi nghĩa quân Phan Đình Phùng thường lui tới để kháng cự với thực dân Pháp và bè lũ tay sai. Đền Hai nằm gần nhà cụ Lê Hữu Chỉ, nơi đặt bộ chỉ huy của cụ Phan Đình Phùng 2km, là nơi bảo vệ khá nghiêm ngặt của nghĩa quân.
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (03/2/1930), nửa đầu năm 1930, chi bộ Đảng Mai Hoa được thành lập trên địa bàn hai Đức Lĩnh và Đức Giang ngày nay và trở thành chi bộ Đảng đầu tiên của tổng Thượng Bồng đồng thời là một trong những chi bộ thành lập sớm nhất ở tỉnh Hà Tĩnh [3]. Chi bộ Mai Hoa ra đời tác động lớn đến phong trào đấu tranh cách mạng ở vùng này. Các đảng viên cộng sản kiên trung của chi bộ Mai Hoa đã ẩn náu và thực hiện nhiều hoạt động cách mạng bí mật ở đền Hai, xã Đức Lĩnh, hưởng ứng phong trào đấu tranh quyết liệt, góp phần tạo nên cao trào Xô Viết – Nghệ Tĩnh lập nên chính quyền Xô Viết, đưa chính quyền về tay nhân dân.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946-1954), đền Hai cũng nằm trong an toàn khu (ATK) nơi tập trung máy móc, thiết bị sản xuất phục vụ kháng chiến của nhiều cơ quan trọng yếu của trung ương.
Toàn cảnh đền Hai
Đền Hai là một ngôi đền linh thiêng. Trước đây, khi đi qua đền người dân phải cất nón, mũ rồi mới được qua nếu không sẽ sợ thần “quở trách”. Nghi lễ tổ chức ở đền hàng năm, lễ chính thường vào hai ngày rằm tháng Giêng và tết Đoan Ngọ 5/5 ÂL. Vào ngày 5/5, sau khi mùa màng thu hoạch xong, để cảm ơn thần đã phù hộ độ trì được mùa màng bội thu, nhân dân đã tổ chức lễ tế với nhiều vật phẩm: hương, hoa, thủ lợn, xôi gà... Đại lễ có lý trưởng, chánh tổng Thượng Bồng, xưa thuộc huyện Hương Sơn, phủ Đức Quang đến dự. Những người chủ lễ là những người đàn ông có tín nhiệm, uy tín với dân làng được giao trọng trách hành lễ.
Đền Hai ngoảnh mặt về hướng Đông Đông Bắc. Đền có khuôn viên khá rộng rãi. Các công trình của đền được bố trí đăng đối trên trục thần đạo bao gồm: cột nanh và tường dắc, nghi môn, thượng điện.
Trước khi bước vào di tích, đầu tiên chúng ta bắt gặp cột nanh cao 2,75m và tường dắc cao 0,8m. Thân cột nanh hình trụ vuông, tiết diện 0,44m x 0,44m. Đầu gắn nghê chầu. Hai cột trụ phía cuối hình trụ vuông đầu gắn búp sen. Phía trước cột nanh, người ta đắp đôi voi quỳ lớn chầu vào nhau, với đôi tai to, cặp ngà cong và chiếc vòi vươn cao.
Qua cột nanh, chúng ta gặp nghi môn. Nghi môn được xây dựng khá công phu, bề thế với nhiều trụ biểu liên hoàn, đăng đối trên trục thần đạo của di tích. Trụ biểu chính của nghi môn cao nhất 5,50m, được chia thành 3 phần: đế, thân và đầu. Đế có tiết diện 1,05m x 1,05m, được chia thành nhiều cấp, càng lên cao càng nhỏ dần. Thân hình trụ vuông, tiết diện 0,64m x0,64m, bề mặt kẻ các đường diềm vây quanh, ở giữa khắc đôi câu đối bằng chữ Hán có nội dung như sau:
Nguyên văn chữ Hán: 忠 孝 一 心 天 地 白
敬 成 議 祀 龟 神 知
Phiên âm: Trung hiếu nhất tâm thiên địa bạch
Kính thành nghị tự quỷ thần tri
Dịch nghĩa: Một lòng trung hiếu trời đất biết
Phụng thờ thần kính quỷ thần hay
Phần đầu trụ biểu được tạo thành nhiều cấp. Đứng phía trên gắn nghê chầu, chân sau trong tư thế quỳ, chân trước đứng thẳng. Tất cả tạo tính linh thiêng cho di tích.
Tiếp theo trụ biểu là bức tường có tạo mái chồng diêm, lợp ngói vảy, bề mặt đắp nổi tướng canh, đứng uy nghiêm, mặt nhìn thẳng về phía trước, mặc áo giáp sắt, một tay cầm thanh long đao, một tay chống vào phía hông tạo cảm giác trang nghiêm khi đứng trước di tích.
Tiếp theo đó là trụ biểu có chiều cao 3,70m. Đế cao 0,25m, tiết diện 0,70m x 0,70m. Thân hình trụ vuông , tiết diện 0,38m x 0,38m. Đầu cột đắp 4 con phượng quay đôi vào nhau theo hướng đi lên, nhỏ dần, đầu đi xuống hướng về tứ phía.
Nằm xen kẻ với các chi tiết trên là bức tường cao 1,90m, phía trên tạo mái gắn ngói vảy.
Thượng điện có kiến trúc thời Nguyễn, có niên đại năm Quý Sửu, niên hiệu Tự Đức (1868). Thượng điện là ngôi nhà tứ trụ, gỗ lim cao 4m (tính từ mặt nền đến thượng lương), một gian hai hồi. Diện tích mặt bằng 28,75m2(5m x 5,75m). Thượng điện có hai bộ vì được tạo theo kiểu vì chồng rường, rường cụt. Mỗi bộ vì có 4 cột hình trụ tròn, đường kính 0,22m, trong đó có 2 cột quân, 1 cột cái, 1 cột trốn. Bộ vì được chia thành 2 phần: 1 vì nóc và 2 vì nách. Hai vì nách giống nhau. Vì nách hình tam giác vuông được giới hạn bởi xà nách, cột cái (hoặc cột trốn) và mái. Lấp đầy vì nách bằng cách tạo rường cụt đè lên cột trốn, một đầu ăn mộng vào cột cái (hoặc cột trốn), một đầu đở lấy hoành mái. Vì nóc hình tam giác cân, được giới hạn bởi 2 mái và câu đầu, ở giữa có hai đấu nằm lên lưng câu đầu đỡ lấy rường bụng lợn. Rường bụng lợn to khỏe đỡ lấy một đấu khác, đấu đỡ lấy thượng lương (đòn dông), thượng lương đỡ lấy mái, mái che mưa che nắng cho công trình. Để mở rộng không gian, người ta tạo bẩy hiên, một đầu ăn mộng vào đầu cột quân, tỳ lực vào dạ xà nách, một đầu uốn cong vươn ra đỡ lấy hoành mái.
Trên phần các cấu kiện gỗ của thượng điện được chạm khắc với các đề tài truyền thống như mây cách điệu, rồng, rùa, đao mác…tạo tính thẩm mỹ cho di tích.
Liên kết chiều ngang có câu đầu, tiết diện vuông 0,18m x 0,18m, ăn mộng vào cột cái và cột trốn; có xà nách ăn mộng qua đầu 3 cột (2 cột quân , 1 cột cái), đỡ lấy cột trốn. Liên kết chiều dọc có các xà dọc, xà ngưỡng và có sự hỗ trợ của các hoành mái. Tất cả tạo nên bộ khung ba chiều vững chắc chịu lực cho toàn bộ công trình.
Hệ mái của được cấu tạo bởi hoành mái tiết diện vuông 0,08m x 0,08m, rui, mè và ngói mũi đất nung. Hoành mái và thượng lương đặt theo chiều dọc của thượng điện. Rui đặt trên và vuông góc với hành mái. Mè đặt vuông góc với rui với khoảng cách đủ cố định ngói mũi lợp thành mái. Trên thượng ốc trang trí lưỡng long triều nguyệt. Bốn góc mái đặt con kìm nguýnh vừa có chức năng trang trí vừa có chức năng cố định góc mái. Hai bên hồi, đặc biệt là ở phần vĩ ruồi cũng được lợp ngói như ở hai mái chính của thượng điện.
Thượng điện được xây bao 3 phía: 2 phía tả, hữu và phía sau. Phía trướcthượng điện xây đôi cột quyết hình trụ vuông, bề mặt khắc 2 đôi câu đối:
Đôi 1: Nguyên văn chữ Hán 慈 祥德澤 符香木
翊保靈聲對彥山
Phiên âm : Từ tường đức trạch phù hương thủy
Dực bảo linh thanh đối ngạn sơn
Dịch nghĩa: Yêu nhuần ân đức tùy Hương thủy
Kính giữ oai linh đáp Ngạn sơn.
Đôi 2: Nguyên văn chữ Hán:雨 露 發 英 今 草 木
楼 薹 增 壮 古 山 川
Phiên âm: Vũ lộ phát anh kim thảo mộc
Lâu đài tăng tráng cổ sơn xuyên.
Dịch nghĩa: Mưa móc tốt tươi cây cỏ mới
Lâu đài khuếch đại núi sông xưa
Cửa chính ra vào rộng 2 m bao gồm 4 cánh cửa cấu tạo theo kiểu “thượng song, hạ bản”đặt và chột mộng trên xà ngưỡng.
Đền Hai là di tích lịch sử được người dân xây dựng từ lâu đời. Khởi thủy là một ngôi miếu nhỏ, khá khiêm tốn, phụng thờ thủy thần. Dần dần, do nhu cầu tín ngưỡng, vào năm Quý Sửu, niên hiệu Tự Đức, thời Nguyễn (1868), ngôi đền được tôn tạo khang trang với hai tòa thượng, hạ điện bằng gỗ lim chạm trổ cầu kỳ với nhiều đề tài truyền thống và nghi môn, phía trước có đôi voi quỳ chầu hai bên. Đền rất uy nghiêm, có ban lễ nghi. Qua thời gian đến nữa đầu thế kỷ 20, đền bị xuống cấp nghiêm trọng. Tòa hạ điện, nghi môn trở thành phế tích. Đến những năm gần đây, thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển; được sự chỉ đạo của chính quyền địa phương, đền Hai được khôi phục lại từng phần. Tòa thượng điện được tôn tạo lại dựa trên bộ khung gỗ cũ, nâng cao nền chống thấp lụt. Nghi môn được xây dựng lại bề thế. /.
Chú thích:
[1] Theo Từ điển Hà Tĩnh, Bùi Thiết (chủ biên), Sở VHTT Hà Tĩnh.
[2] Theo cuốn “Phan Đình Phùng, cuộc đời và sự nghiệp”, Nxb Nghệ An, 2007, tr.82, 83.
[3] Theo cuốn “Lịch sử Đảng đảng bộ và nhân dân xã Đức Lĩnh (1930 – 2014)”, Nxb Nghệ An, năm 2015, tr. 32.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đặng Duy Báu (chủ biên), Lịch sử Hà Tĩnh, Tập 1, Nxb Chính trị
Quốc gia.
Đinh Xuân Lâm, Chương Thâu (2007), Phan Đình Phùng, cuộc đời và sự nghiệp, Nxb Nghệ An, Sở Văn hóa- Thông tin Hà Tĩnh. Bùi Thiết (chủ biên) (2000), Từ điển Hà Tĩnh, Sở VH&TT Hà Tĩnh. (2015), Lịch sử Đảng bộ và nhân dân xã Đức Lĩnh (1930 -2014), Nxb Nghệ An. (2005), (1998), Mét thêi kh«ng quªn, nhµ xuÊt b¶n ThuËn Ho¸, HuÕ. Vò Quang xa vµ nay, HuyÖn uû – Uû ban nh©n d©n huyÖn Vò Quang.