Sáng Từ 8h đến 12h
Chiều Từ 13h30 đến 17h
Tất cả các ngày trong tuần.
Trừ thứ 2 đầu tiên hàng tháng
Cụm giếng cổ ở xã Kỳ Khang hiện còn nguyên vẹn gồm: Giếng làng Trung Giáp, giếng làng Đông Hải và giếng Chân Tiên. Vì giếng ở đây được xây cất, chọn mạch nguồn nước, chọn vật liệu làm giếng bằng kỹ thuật của người Chăm Pa xưa.
Hà Tĩnh là một tỉnh của Bắc Trung Bộ Việt Nam. Trong lịch sử, kể từ thời kỳ Bắc thuộc thế kỷ 4 đến thời kỳ phong kiến độc lập tự chủ thế kỷ 14, Hà Tĩnh là vùng đất giáp ranh giữa Việt và Chăm. Kỳ Anh là một huyện phía nam của tỉnh Hà Tĩnh nên chịu ảnh hưởng rất lớn bởi yếu tố này. Trong giai đoạn 10 thế kỷ này, lúc âm ỉ, lúc giữ dội, cuộc đấu tranh giữa Việt và Chàm tranh giành cương vực diễn ra liên tục. Thời Bắc thuộc, xẩy ra nhiều trận đánh giữa Chàm và quân đô hộ Trung Quốc diễn ra trên đất Kỳ Anh nói riêng và Hà Tĩnh nói chung. Có nhiều lần quân Chăm Pa đã chiếm đóng vùng đất này đến 70 năm, lấy núi Nam Giới – Quỳnh Viên làm ranh giới bắc nam. Đại Việt sử ký toàn thư chép vào năm Kỷ Hợi (543) “Mùa hạ, tháng 4, vua Lâm Ấp cướp quận Nhật Nam, vua sai tướng là Phạm Tu đánh tan ở quận Cửu Đức”. Lúc này, đất Kỳ Anh thuộc quận Cửu Đức. Sự kiện xẩy ra năm Ất Sửu (605), Tùy Dạng đế Quảng sai Lưu Phương đi đánh nước Lâm Ấp để cướp của cải. Năm 346, vua Lâm Ấp là Phạm Văn đòi lấy Hoành Sơn làm biên giới và cho xây lũy đá trên núi dài khoảng 30km. Thời Tấn, Tùy, Đường có lúc quân Lâm Ấp còn đánh ra phía bắc Hoành Sơn. Năm 803, quân Hoàn Vương đánh chiếm Châu Hoan, Châu Ái trong vong 5 năm. Đến năm 808 mới chịu lui. Năm 907-910, người Chăm Pa đã đánh chiếm, sáp nhập và cai trị vùng đất từ Hoành Sơn ra đến Cửa Sót và cho xây thành lũy. Ở Cẩm Thạch, Cẩm Thành bây giờ còn có dấu vết lũy, người ta gọi là thành Chàm. Năm Tân Tỵ (981), vua Lê Đại Hành cho quân đi đánh Chiêm Thành, giải phóng vùng đất từ Nam Giới đến Hoành Sơn. 1
Trong thời gian chiếm đóng và cai trị đó, ngoài việc khai thác tài nguyên, người Chăm Pa đã xây dựng thành lũy, đặc biệt di tích hiện còn sót lại là những giếng cổ được xây cất bằng kỹ thuật của người Chăm Pa, mang dấu ấn giao thoa văn hóa trong lịch sử, xuất hiện nhiều ở vùng trước đây họ chiếm đóng từ vùng đất Thạch Hà (Nam Giới) cho đến Kỳ Anh. Các giếng này có nhiều ở thong Mai Lâm, xã Mai Phụ (dưới chân núi Nam Giới), rồi thôn Bắc Mỹ Lộc, xã Cẩm Huy, huyện Cẩm Xuyên và đặc biệt là Kỳ Anh. Ở Kỳ Anh, mật độ xuất hiện giếng dày đặc ở các xã ven biển. Xã Kỳ Ninh có 6 giếng vuông, 4 giếng tròn; xã Kỳ Lợi có 16 giếng hình vuông; xã Kỳ Long có 6 giếng vuông; xã Kỳ Xuân có 13 giếng; xã Kỳ Thịnh có 7 giếng2. Tại xã Kỳ Khang, theo khảo sát, hiện nay xã còn có 3 giếng khá nguyên vẹn: Giếng làng Trung Giáp, giếng làng Đông Hải, giếng Chân Tiên nằm cách nhau trên dưới 1km thuộc thôn Trung Tiến và thôn Trung Hải.
Nghiên cứu giếng cổ Chăm Pa đã có một quá trình lâu dài. Theo như được biết cho đến bây giờ, việc nghiên cứu di tích này được những học giả người Pháp đặt nền móng, trong đó tiêu biểu có nhà nữ khảo cổ học người Pháp Madeliene Colani. Từ những thập niên đầu của thế kỷ 20, họ đã khảo tả, vẽ sơ đồ, chụp ảnh và phân loại chúng. Các học giả Việt Nam nghiên cứu về giếng cổ Chăm Pa tiêu biểu có Giáo sư Trần Quốc Vượng. Theo ông, kỹ thuật xây cất giếng, kiến thức về mạch nước và văn hóa sử dụng nước sạch của người Chăm là thiên tài, là thần thái và là bản sắc văn hóa của người Chăm. Có sức sống bền bỉ và có khả năng giao lưu với các nền văn hóa khác.
Giếng cổ Chăm Pa - làng Đông Hải, Kỳ Khang
Việc xuất hiện giếng cổ xây dựng bằng kỹ thuật Chăm Pa ở Hà Tĩnh nói chung và Kỳ Khang nói riêng là phục vụ cuộc sống cộng đồng cư dân. Xưa kia, đây là nguồn cung cấp nước chính dùng để nấu nướng, tắm rửa và nhiều giếng nước gần biển là nguồn cung cấp nước ngọt cho những người đi biển đánh cá và buôn bán. Nước giếng trở thành hàng hóa buôn bán quan trọng của người Chăm trong lịch sử. Bằng khả năng, bí quyết chọn được nguồn nước tốt mà nước giếng cổ Chăm Pa ít khi bị cạn kiệt, dù là ở độ sâu nông nào hay hạn hán. Giếng ở gần biển như giếng làng Trung Giáp nước giếng không vì thế mà bị nhiễm mặn mà luôn ngọt lành.
Cụm giếng cổ ở Kỳ Khang hoàn toàn là giếng đóng, chưa phát hiện thấy giếng mở. Hiện nay chưa biết xây dựng từ bao giờ. Giếng hình vuông. Khởi thủy, trước đây toàn bằng gỗ từ thành giếng cho đến đáy giếng. Thành giếng được bịt kín bằng gỗ chịu nước. Đáy được đục lỗ, thường là 9 lỗ. Bốn góc giếng dựng 4 cột vuông để gắn thành giếng. Qua thời gian và biến thiên của lịch sử, giếng cổ Chăm Pa ở xã Kỳ Khang đã được nhiều thế hệ người dân khai thác, sử dụng. Sau khi vùng đất Kỳ Anh trở thành đất của Đại Việt, người Việt lại tiếp tục sử dụng và bị xuống cấp nên được tu bổ, tôn tạo lại bằng vật liệu khác đó là ghép đá và vôi vữa nhưng vẫn cố gắng giữ hình thù như cũ, đó đều là hình vuông và xây thêm phần tường dắc bao quanh và sân giếng. Đặc biệt, giếng làng Trung Giáp còn mô phỏng lại hình dáng cũ nhưng bằng vật liệu vôi vữa như 4 góc vẫn tạo 4 cột vuông như bằng gỗ. Phần cột cao hơn phần thành giếng. Tuy nhiên,một phần ngầm thành giếng và đáy giếng ở dưới lòng đất vẫn giữ nguyên. Tất cả 3 giếng làng Trung Giáp, làng Đông Hải và giếng Chân Tiên hiện nay vẫn được một số người dân xung quanh sử dụng.
Giếng cổ Chăm Pa - làng Trung Giáp, Kỳ Khang
Cụm giếng cổ xây bằng kỹ thuật Chăm Pa là một phần lịch sử của Kỳ Anh, Hà Tĩnh nói chung và xã Kỳ Khang nói riêng. Nó phản ánh một giai đoạn lịch sử dài lâu khi mà vùng đất này còn là biên viễn, phên dậu của hai quốc gia Đại Việt và Chăm Pa thời Bắc thuộc cũng như thời phong kiến độc lập tự chủ. Việc ảnh hưởng qua lại lẫn nhau, xâm chiếm lẫn nhau, giao tranh nhằm mở rộng cương vực, ảnh hưởng giữa hai quốc gia đã một phần thể hiện qua các di tích hiện còn, ngoài lũy Lâm Ấp còn có những giếng cổ.
Kỹ thuật đào giếng và chọn nguồn nước tốt và hệ thống giếng của người Chăm là một di sản văn hóa. Nó kết tinh lao động, trí tuệ của người Chăm xưa, sau nữa là thể hiện sự giao thoa tiếp biến văn hóa giữa hai nền văn hóa Việt – Chăm. Xung quanh việc sử dụng giếng của người dân xã Kỳ Khang cũng đã thể hiện được tập quán xã hội, truyền thống, biến đổi văn hóa của các cộng đồng dân cư qua các thời kỳ lịch sử.
Giếng cổ Chăm Pa ở xã Kỳ Khang cho phép các nhà khảo cổ, sử học, bảo tàng… có thêm tư liệu nghiên cứu quá trình di cư, sinh sống trên mảnh đất Hà Tĩnh của người Chăm trong lịch sử. Di tích cũng giúp nghiên cứu khoa học kỹ thuật cổ của người Chăm trong việc xây cất giếng.
Di tích cụm giếng cổ ở xã Kỳ Khang không biết khởi tạo từ bao giờ. Nhưng phải khẳng định rằng di tích được tạo dựng bằng kỹ thuật xây cất giếng của người Chăm Pa. Hiện nay, trên đất Kỳ Anh, ngoài dấu vết lũy Lâm Ấp, thì giếng cổ là dấu vết quý giá còn sót lại cho chúng ta biết quá trình giao thoa, tiếp biến văn hóa tại vùng đất một thời là biên viễn giữa Việt và Chăm từ khoảng thế kỷ 4 đến 14. Qua thời gian và biến thiên của lịch sử, vùng đất này trở thành lãnh thổ của Đại Việt và những giếng cổ mang kỹ thuật Chăm Pa đã được người Việt tiếp thu, sử dụng phục vụ với mục đích dân sinh. Qua nhiều thế hệ, người Việt đã tu bổ, tôn tạo như hiện trạng bây giờ, thể hiện rất rõ ở ba di tích ở xã Kỳ Khang: giếng làng Trung Giáp, giếng làng Đông Hải và giếng Chân Tiên. Trước đây, giếng cổ là nguồn cung cấp nước cho cả một cộng đồng cư dân dù thời tiết có khắc nghiệt như lũ lụt, hạn hán hay được xây cất ở gần bờ biển thì những giếng nước này vẫn ngọt, trong và không bao giờ cạn. Đó là kết quả tài tình của việc chọn nguồn nước và kỹ thuật xây cất giếng của người Cham Pa xưa. Ngoài ra, nguồn nước giếng này cũng cung cấp phần lớn phục vụ cho những tàu đánh cá và tàu buôn trong nhiều thế kỷ. Hiện nay, nhiều hộ dân trong làng Trung Giáp và Đông Hải vẫn xử dụng nguồn nước ở ba giếng này để nấu nướng, giặt giũ, tắm gội, đặc biệt nước giếng nấu nước chè xanh rất ngon. Từ ban đầu là nguồn cung cấp nước chính cho đến lúc những giếng khoan và những bể đựng nước mưa lớn xuất hiện, nhiều hộ gia đình đã không dùng nước giếng cổ nữa vì khoảng cách lấy nước xa. Từ đây vị trí độc tôn của nước giếng cổ mất dần. Thay vào đó việc tồn tại của chúng cho đến ngày nay được người dân coi như là một di tích lịch sử - văn hóa, chứng tích lịch sử một thời mà thế hệ tiền nhân đã để lại cho con cháu hôm nay và mai sau.
Giếng Tiên - xã Kỳ Khang
Cụm giếng cổ ở xã Kỳ Khang, huyện Kỳ Anh là di tích lịch sử - văn hóa có giá trị về nhiều mặt. Để bảo vệ và phát huy giá trị của di tích, chúng tôi đề xuất một số nội dung như sau:
- Thực hiện cơ chế Nhà nước và nhân dân cùng làm bằng cách xã hội hóa việc bảo tồn và phát huy tác dụng của di tích. Quy hoạch mặt bằng tổng thể khuôn viên, làm cho môi trường xanh, sạch, thoáng. Mở rộng khuôn viên rộng rãi nhằm tránh phá vỡ cảnh quan chung của di tích.
- Sau khi di tích được lập hồ sơ khoa học và UBND tỉnh ra quyết định công nhận di tích cấp tỉnh, di tích nằm trong sự quản lý của Nhà nước của các cấp có liên quan. Việc chỉnh sửa, trùng tu, tôn tạo, nâng cấp không được tùy tiện mà cần sự cho phép của các cơ quan chức năng. Chủ sở hữu di tích có quyền yêu cầu Nhà nước tư vấn về khoa học và pháp lý trong việc sử dụng và phát huy giá trị của di tích.
- Hàng năm, cần khôi phục, tổ chức thuyết minh, giới thiệu về di tích nhằm giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa tốt đẹp cho các thế hệ; tổ chức các hoạt động văn hóa gắn liền với di tích.
- Kết nối di tích cụm giếng cổ ở xã Kỳ Khang với các di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh trong vùng như: Núi Bàn Độ, nhà thờ họ Nguyễn Trinh, Miếu Ải, chùa Ải, chùa Bàn Độ (chùa Am), chùa Linh Ải, dấu Chân Tiên, điện Thánh Chúa …thành tua du lịch thu hút khách tham quan, góp phần bảo tồn, phát huy di sản văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
1 Theo Địa chí huyện Kỳ Anh, Thái Kim Đỉnh chủ biên, Huyện ủy và Ủy ban nhân dân huyện Kỳ Anh tỉnh Hà Tĩnh, xuất bản năm 1996, tr.54-57.
2 Đây là kết quả khảo sát của Tiến sĩ Nguyễn Tiến Đông, Viện Khảo cổ học Việt Nam.